Nước Đức sau Thế Chiến Thứ Nhất.
Từ ngày 26 tháng 9 năm 1918, các nước Đồng Minh đã phản công lần thứ hai chống lại nước Đức. 220 sư đoàn đã đồng loạt tấn công dọc theo trận tuyến từ bờ biển nước Bỉ kéo dài tới thị trấn St. Mihiel, bắt đầu bằng lực lượng Pháp – Hoa Kỳ đánh vào vùng hai con sông Meuse – Argonne. Ngày hôm sau, 40 sư đoàn quân Anh phối hợp với 2 sư đoàn quân Hoa Kỳ tấn công vào phòng tuyến Hindenburg rồi vào ngày kế tiếp, 28 sư đoàn của Vua Albert, gồm các đạo quân Bỉ, Pháp, Anh và Hoa Kỳ đánh vào miền Flanders. Tất cả những đợt tấn công này đã bắt buộc quân đội Đức phải rút lui về phía sau sông Scheld tại phía bắc và thành phố Sedan tại phía nam.
Nhìn thấy cảnh thất trận tới gần, Tướng Ludendorff đã thông báo cho Hội Đồng Chiến Tranh Hoàng Gia Đức (the Imperial Council of War) vào ngày 29 – 2 – 1918 rằng nước Đức phải tìm kiếm một cuộc đình chiến đặt trên căn bản 14 điểm của Tổng Thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson. Ngày 03 – 10 – 1918, Hoàng Đế Đức (Kaiser) đã chỉ định ông Hoàng Max von Baden làm Chưởng Ấn (Chancellor = Thủ Tướng) với hy vọng tạo được một chính phủ ổn định theo Hiến Pháp, nhưng tình trạng trong nước Đức đã trở nên quá rối ren. Đã có các cuộc nổi loạn tại khắp nơi, các hội đồng công nhân và quân nhân xuất hiện tại mỗi thành phố, lính thủy làm loạn tại Kiel, miền Bavaria tuyên bố thành lập một nước cộng hòa xã hội vào ngày 07 – 11 – 1918. Sau đó 2 ngày, ông Hoàng Max von Baden công bố sự thoái vị của Vua Wilhelm II và việc thành lập chính phủ lâm thời bởi ông Friedrich Ebert, một nhà dân chủ xã hội. Vào ngày 10 tháng 11, Hoàng Đế Wilhelm II lên một toa xe lửa, rời nước Đức đi tị nạn tại Hoà Lan.
Sáng ngày 11 – 11 – 1918, các đại diện của nước Đức và các nước Đồng Minh đã ký một bản đình chiến trên một toa tầu nằm trong rừng Compiègne, phía bắc của thành phố Paris, nước Pháp. Từ đây, nước Đức đồng ý từ bỏ tất cả các miền đất đã chiếm được, chấp nhận lui quân đội về phía tây giòng sông Rhine, tháo gỡ các công sự chiến đấu trong miền Rhineland và miền này bị chiếm đóng trong 15 năm, đầu hàng toàn thể bộ máy chiến tranh và hạm đội, và quân đội Đức bị giới hạn ở quân số 100 ngàn người.
Đúng 11 giờ sáng ngày 11 tháng 11 năm 1918, Thế Chiến Thứ Nhất đã chấm dứt. Trên toàn thế giới và châu Âu, mọi người đã reo mừng. Tuy nhiên, vết thương chiến tranh còn in hằn trên lục địa châu Âu trong nhiều thập niên.
Vào năm 1919, đất nước Đức nằm trong hoàn cảnh tang thương của thời kỳ hậu chiến. Sự thất trận làm tổn thương tinh thần của người dân Đức, nền kinh tế bị kiệt quệ vì thiếu thốn đủ thứ, hàng triệu người lính Đức trở về nhà, về đời sống dân sự mà không thể kiếm ra được công ăn việc làm. Tại nhiều thành phố đã xẩy ra các cuộc xáo trộn xách động bởi các người Cộng Sản. Nhiều quân nhân cũ do thất nghiệp, không thể hội nhập vào đời sống dân sự nên đã tham gia vào đoàn quân Freikorps (đoàn quân tự do), là một loại băng đảng bán quân sự, thường chống lại các người Cộng Sản, thường đi ăn cướp hay phá hoại.
Sau Thế Chiến Thứ Nhất, chính phủ của nước Đức được bầu lên vào ngày 19 – 1 – 1919 và dẫn đầu bởi 3 đảng phái thiên cộng hòa. Chính phủ này đã họp lần đầu tiên tại thành phố Weimar để tránh sự xáo trộn của thành phố Berlin. Weimar là nơi tượng trưng cho hòa bình và triết lý của nước Đức thời bấy giờ. Hiến Pháp Weimar cũng cởi mở, có mục đích thay thế cách độc đoán của Vua Wilhelm II với các nghị viên chỉ biết vâng lời. Đất nước Đức vào thời gian này đang cần tới sự đại diện dân chủ. Trong cuộc bầu cử lần thứ nhất, 3 đảng phái ôn hòa đã nhận được ba phần tư phiếu bầu. Thời đó phe Cộng Sản đã tẩy chay cuộc bầu cử và đảng Quốc Xã chưa thành hình. Nhưng các điều kiện nghiêm khắc của Hòa Ước Versailles áp đặt lên nước Đức thất trận đã khiến cho Chưởng Ấn Phillip Scheideman từ chức vào tháng 6 năm 1919 vì không chịu chấp nhận các điều kiện đó. Trước sự đe dọa của phe Đồng Minh là sẽ xâm lăng hay phong tỏa các miền kỹ nghệ trù phú, chính phủ mới của nước Đức hậu chiến bị khuất phục và phải ký Hòa Ước Versailles vào ngày 28 – 6 – 1919.
Tình trạng chính trị của nước Đức lại rối tung thêm khi Tướng Erich von Ludendorff tuyên bố rằng quân đội Đức chưa thua trận và Bộ Tham Mưu Đức bị đâm sau lưng. Vị trí của chính phủ dân sự vì thế càng trở nên yếu kém hơn. Các nhà lãnh đạo mới của Cộng Hòa Weimar non nớt đã không quen cách dùng quyền lực. Họ đã không biết đoàn kết để bảo vệ chính nghĩa, họ thường tranh cãi nhau trong suốt các năm từ 1918 tới 1933 và đã vụng về trao nền trật tự công cộng cho nhóm Freikorps tàn bạo, cho quân đội còn lại hay cho nhóm Nazi bán quân sự. Các nhà chính trị dân chủ này đã thương thảo với các kẻ cực đoan, với hy vọng là có thể thuần hóa được chúng trong đường lối đấu tranh dân chủ khi cho chúng tham gia vào chính quyền.
Hiến Pháp mới của nước Đức vào các năm sau Thế Chiến Thứ Nhất đã không thể huấn luyện tinh thần và tập quán dân chủ cho một dân tộc hiếu chiến, qua một thế kỷ đã biết rất ít về thể chế dân chủ! Mặt khác, các vị khoa bảng, các giáo sư danh tiếng vào thời kỳ đó vẫn còn tuyên truyền cho chủ nghĩa quyền lực và sự vượt trội của Dân Tộc Đức và những nhà lãnh đạo đương thời thì bị coi là ôn hòa, bảo thủ, thường thiên vị các kẻ cánh hữu thích âm mưu khủng bố, hơn là các kẻ chống đối cánh tả. Trong khi đó người dân Đức lại đem lòng nhớ tiếc các kỷ niệm huy hoàng của thời chiến tranh, chán nản trước các xáo trộn kinh tế hiện đang diễn ra và các cuộc cãi cọ chính trị thường xẩy ra giữa các đảng phái. Dĩ nhiên là dân chúng Đức mong mỏi tình trạng kỷ luật, trông đợi sự đoàn kết và những điều này đã khiến cho Đảng Quốc Xã sau này nắm quyền và đưa đất nước Đức vào nơi thảm khốc.