Bệnh bại liệt: Chẩn đoán và phòng bệnh

Bệnh bại liệt là một bệnh nhiễm vi-rút cấp tính lây truyền theo đường tiêu hoá do vi-rút Polio (Poliovirus) gây nên, có thể lan truyền thành dịch.

0

Chẩn đoán bệnh bại liệt

1. Chẩn đoán phân biệt

- Nhiễm vi-rút ECHO và Coxsackie với thể bệnh viêm màng não vô khuẩn và triệu chứng liệt.

- Vi-rút EV7: Căn nguyên chính của bệnh tay - chân - miệng và viêm não - màng não cũng gây liệt.

- Chấn thương: Liệt do chấn thương.

- Liệt do viêm dây thần kinh thứ phát sau tiêm bắp.

- Hội chứng Guillain Barré.

2. Xét nghiệm

- Bệnh phẩm: Để phân lập chính xác được vi-rút bại liệt Polio bệnh phẩm chính là phân bệnh nhân được lấy trong vòng 14 ngày kể từ khi mắc bệnh.

- Phương pháp xét nghệm:

+ Tế bào thận khỉ tiên phát (PMKC) là dòng tế bào nuôi thích hợp nhất cho phân lập vi-rút. Ngoài ra cũng có thể áp dụng các tế bào khác cho phân lập vi-rút đường ruột là L20B và RD để phân lập vi-rút bại liệt.

+ Vi-rút bại liệt có trong bệnh phẩm nhanh chóng phát triển trong dòng tế bào cảm thụ, gây hủy hoại hoàn toàn tế bào trong vài ngày, biểu hiện là tế bào co tròn lại rồi tách khỏi thành chai nuôi cấy. Sẽ gặt tế bào khi trên 50% tế bào bị hủy hoại. Vi-rút phân lập, được định týp huyết thanh bằng phương pháp trung hoà vi lượng trên tế bào nuôi với các kháng huyết thanh mẫu chuẩn. Vi-rút bại liệt Polio có 3 týp huyết thanh: týp I, týp II và týp III - Theo Sức khỏe & đời sống.

Điều trị bệnh bại liệt

+ Nguyên tắc điều trị: Bệnh bại liệt là bệnh lây nhiễm do vi-rút nên chưa có các biện pháp điều trị đặc hiệu, bệnh nhân được:

- Bất động hoàn toàn.

- Tăng cường và nâng cao thể trạng bằng sinh tố và dịch truyền.

- Hỗ trợ hô hấp, nếu có dấu hiệu của liệt tủy.

- Điều trị kháng sinh nếu có bội nhiễm vi khuẩn, cụ thể theo chỉ định của bác sĩ lâm sàng.

Phục hồi chức năng và khắc phục di chứng (rất quan trọng sau khi lui bệnh).

+ Bảo vệ người tiếp xúc: Thực hiện vệ sinh chung, cá nhân, an toàn thực phẩm.

- Uống vắc-xin OPV dự phòng.

Phòng ngừa bệnh bại liệt

Dân trí cho biết, bệnh bại liệt có thể chủ động phòng ngừa bằng cách sử dụng vắc xin phòng bệnh. Có hai loại vắc xin là vắc xin sống giảm độc lực gọi là Sabin và vắc xin tiêm gọi là Salk.

- Vắc xin Sabin uống có tên chung là vắc xin bại liệt uống OPV (oral polyomyelitis vắc xine) với tên thương mại là Polio Sabin (type 1, 2, 3) + Neomycin sulfate 5µg/liều, có thời gian bảo vệ hơn 10 năm. Sử dụng vắc xin Sabin uống phòng bệnh bại liệt theo quy định lịch của chương trình tiêm chủng mở rộng. Thường dùng 3 lần theo lịch cùng với vắc xin bạch hầu, ho gà, uốn ván vào lúc trẻ được 2 tháng tuổi,  3 tháng tuổi và 4 tháng tuổi.

- Vắc xin bại liệt dạng tiêm có tên chung là vắc xin bại liệt bất hoạt IPV (inactivated polyomyelitis vaccine) với tên thương mại là IPOL (type 1, 2, 3), có thời gian bảo vệ nhiều năm. Vắc xin cũng được sử dụng theo lịch quy định của chương trình tiêm chủng mở rộng, có nghĩa là dùng 3 lần theo lịch cùng với vắc xin bạch hầu, ho gà, uốn ván vào lúc trẻ được 2 tháng tuổi,  3 tháng tuổi và 4 tháng tuổi. Nên nhớ rằng chỉ dùng vắc xin bại liệt tiêm cho các đối tượng trẻ không uống được vắc xin Sabin.

Trà Mi

Nên đọc

0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]