Các thuốc điều trị viêm họng

Viêm họng cấp là hiện tượng xung huyết phù nề niêm mạc vùng họng do virut (chiếm từ 60-80% trường hợp), vi khuẩn (thường do bội nhiễm sau nhiễm virut). Một số loại vi khuẩn thường gặp gây bệnh ở họng là: Liên cầu bêta tan huyết nhóm A (khoảng 20%), phế cầu và Hemophilus Inluenza, tụ cầu vàng.

15.6084

Không nên dùng thuốc xịt họng quá 10 ngày.

Viêm họng có hai dạng là viêm họng cấp tính và viêm họng mạn tính.

Viêm họng cấp là hiện tượng xung huyết phù nề niêm mạc vùng họng do virut (chiếm từ 60-80% trường hợp), vi khuẩn (thường do bội nhiễm sau nhiễm virut). Một số loại vi khuẩn thường gặp gây bệnh ở họng là: Liên cầu bêta tan huyết nhóm A (khoảng 20%), phế cầu và Hemophilus Inluenza, tụ cầu vàng. Viêm họng trong các bệnh toàn thân như bệnh về máu.

Viêm họng mạn tính là tình trạng viêm họng kéo dài, thể hiện dưới 3 hình thức chính là xuất tiết, quá phát và teo. Thể điển hình của viêm họng mạn tính là viêm họng mạn tính tỏa lan, viêm họng mạn tính khu trú gồm có viêm VA mạn tính và viêm amidan mạn tính. Các nguyên nhân gây viêm họng mạn tính phải kể đến viêm mũi xoang mạn tính, đặc biệt là viêm xoang sau, viêm amidan mạn tính, viêm mũi mạn tính do vẹo vách ngăn, quá phát cuốn, polype mũi...

Một số yếu tố thuận lợi gây viêm họng: môi trường ô nhiễm, thời tiết thay đổi, do tiếp xúc với khói bụi, các chất kích thích như: hơi hóa học, bụi vôi, bụi xi măng, thuốc lá, rượu... cơ địa dị ứng, tạng khớp, tạng tân...

Các thuốc điều trị:

Nếu bệnh nhân viêm họng do virut: chủ yếu là tăng cường sức đề kháng cho bệnh nhân bằng chế độ ăn uống hợp lý kết hợp với điều trị triệu chứng như hạ sốt, giảm đau họng, giảm ho.

Kháng sinh chỉ sử dụng trong những trường hợp viêm họng do vi khuẩn đặc biệt là liên cầu. Những yếu tố nghĩ tới viêm họng do liên cầu bêta tan huyết nhóm A (loại có thể gây biến chứng viêm khớp, viêm thận và thấp tim) là: Khởi phát đột ngột, sốt cao 39-40oC, hạch góc hàm hai bên, mủ trắng bẩn ở khe hốc amidan, xét nghiệm máu thấy bạch cầu đa nhân trung tính tăng cao và ASLO dương tính. Kháng sinh thường dùng là nhóm bêta lactam. Nếu dị ứng với nhóm này thì có thể dùng nhóm macrolid như erythromycin, clathromycin hoặc azithromycin theo chỉ định của thầy thuốc chuyên khoa bằng đường uống hoặc đường tiêm.

Thuốc hạ sốt, giảm đau thường dùng nhất là paracetamol dạng gói bột, hỗn dịch, viên nén, viên sủi hoặc viên đặt hậu môn.

Thuốc giảm ho: Tùy theo ho có đờm hoặc ho khan mà thầy thuốc cho các nhóm thuốc khác nhau để giải quyết triệu chứng này nhưng cũng thường chỉ sử dụng khi ho quá nhiều làm ảnh hưởng tới sinh hoạt của người bệnh. Triệu chứng ho sẽ tự khỏi khi hết viêm nhiễm ở họng.

Thuốc súc họng: Làm cho pH họng luôn luôn ở môi trường kiềm nhẹ làm hạn chế sự phát triển của vi khuẩn có hại đồng thời chống viêm và sát khuẩn, giảm ngứa như: bicacmin, givalex, eludril... Tuy nhiên, các thuốc này không được nuốt. Đơn giản nhất là có thể pha nước muối ấm nhạt như nước canh để xúc họng.

Thuốc ngậm chứa kháng sinh, kháng viêm và sát khuẩn như mybacin (neomycin), oropivalone, lysopain... ngậm 4-6 viên/ngày trong 5-7 ngày.

Thuốc xịt họng: Hexaspray, locarbiotal, eludril... chứa kháng sinh, kháng viêm, giảm đau tại niêm mạc họng cũng được sử dụng trong các bệnh lý về họng nhưng thời gian điều trị cũng không quá 10 ngày.

Thường xuyên nhấp từng ngụm nước ấm tránh khô miệng cũng làm cho các triệu chứng khó chịu trong viêm họng giảm đi đáng kể.

Theo Suckhoedoisong

0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]