Sử dụng chất béo ở mức độ vừa
phải, với tỷ lệ hợp lý giữa nguồn thức ăn từ động và thực vật, đồng thời tăng
cường các chất chống ô xy hóa được coi là một chế độ dinh dưỡng để tăng cường
sức khỏe hệ tim mạch nói chung và mạch vành nói riêng.
Các bệnh tim mạch là nguyên
nhân gây tử vong hàng đầu ở các nước công nghiệp hóa. Bệnh cũng đang có xu
hướng gia tăng ở nước ta trong thời gian gần đây. Mối quan hệ giữa bệnh tim
mạch với chế độ ăn đã được quan sát từ cuối thế kỷ 19 khi con người có thể gây
thực nghiệm xơ mỡ động mạch trên thỏ bằng chế độ ăn nhiều cholesterol và acid béo
bão hòa. Năm 1933, người ta đã phát hiện thấy các quần thể dân cư sử dụng nhiều
acid béo no có nguy cơ cao bị xơ mỡ động mạch và bệnh mạch vành (CHD).
Rau, củ, quả chứa nhiều
vitamin tốt cho tim mạch
Nhu cầu về chất béo
Bệnh mạch vành hay bệnh tim
do mạch vành là nguyên nhân gây hội chứng lâm sàng đau thắt ngực và nhiều hội
chứng lâm sàng khác như thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim, đột tử (do mạch
vành). Có tới 90% trường hợp bị bệnh mạch vành là do xơ vữa động mạch do đó có
thể gọi là bệnh tim xơ vữa động mạch.
Nhìn chung người ta vẫn coi
một lượng thừa chất béo và năng lượng là không tốt với sức khỏe tim mạch. Cơ
chế chính là do chất béo và cholesterol trong khẩu phần làm tăng lipoprotein
huyết thanh, đặc biệt là thành phần lipoprotein có tỷ trọng thấp (LCL). LDL-
C ô xy hóa làm tăng ngưng tụ tiểu cầu và
kích thích sự tăng sinh cơ trơn thành mạch, thúc đẩy quá trình xơ vữa. Đồng
thời, LDL – C ô xy hóa bị những đại thực bào bắt giữ tạo nên các tế bào bọt
(foam cell), các tế bào này tích tụ lại thành mảng chất béo bám vào thành động
mạch gây hẹp lòng mạch máu.
Bởi vậy, có ý kiến khuyên
giảm tổng chất béo thay bằng glucid nhưng nhiều bằng chứng cho thấy thay thế
các acid béo bão hòa bằng glucid dẫn đến giảm lipoprotein tỷ trọng cao (HDL) và
tăng triglyxerit, ngược lại nếu thay thế bằng acid béo chưa bão hòa một nối kép
(MUFA), triglyxerit huyết thanh giảm, còn HDL không thay đổi. Như vậy, chế độ
ăn có lượng acid béo no thấp, acid béo chưa no một nối kép cao sẽ có lợi với
sức khỏe tim mạch.
Dựa vào những hiểu biết hiện
nay cho thấy, chất béo không phải là thành phần dinh dưỡng duy nhất có ảnh
hưởng đến bệnh mạch vành nhưng vẫn là thành phần quan trọng nhất. Do vậy lời
khuyên được các nhà dinh dưỡng đưa ra: tổng số chất béo không có vai trò quan
trọng đến bệnh mạch vành bằng loại chất béo cụ thể. Nên không phải kiêng hẳn
chất béo mà là sử dụng chất béo ở tỷ lệ thích hợp (không quá 30% năng lượng ở
các xứ lạnh và 25% ở các xứ nóng). Đồng thời, cần có tỷ lệ cân đối giữa các
thành phần acid béo, các acid béo bão hòa không nên quá 7% nhu cầu năng lượng
của khẩu phần. Bên cạnh mối tương quan giữa các acid béo bão hòa/chưa bão hòa
có nhiều nối kép còn cần chú ý tương quan giữa các acid béo chưa bão hòa nhóm
n-6 (linoleic) và nhóm n-3 (DHA và EPA). Do vậy trong chế độ ăn nên bớt chất
béo từ mỡ, thịt, bơ, sữa toàn phần mà thay vào đó các acid béo chưa bão hòa từ
dầu thực vật và cá.
Vai trò các chất chống ô xy
hóa
Nhiều chất chống ô xy hóa đã
được nghiên cứu mà trước hết là vai trò bảo vệ của vitamin E đối với sự ô xy
hóa LDL trong bệnh sinh xơ vữa động mạch. Bổ sung vitamin E làm giảm nguy cơ
bệnh mạch vành ở nam và nữ. Vitamin E còn có tác dụng bảo vệ hệ thần kinh, hệ
cơ xương và võng mạc mắt chống ô xy hóa.
Vitamin C cũng có đặc tính
chống ô xy hóa cao. Một số công trình nghiên cứu đã đưa ra kết luận về mối liên
quan giữa mức vitamin C trong khẩu phần với bệnh tim mạch. Người ta thấy tác
dụng của vitamin C có ở trong thức ăn tự nhiên tốt hơn ở dạng tách biệt.
Beta - caroten và các
carotenoid khác thường được xếp nhóm cùng với vitamin E và C như là các chất
chống ô xy hóa và đã có những công trình khoa học chỉ rõ mối liên quan giữa hàm
lượng Beta - caroten trong cơ thể với nguy cơ ung thư phổi và bệnh tim mạch ở
những người hút thuốc lá. Tuy nhiên các bằng chứng này vẫn chưa nhất quán.
Hiện nay, bên cạnh các chất
chống ô xy hóa trên, người ta còn phát hiện thấy trong một số thực phẩm mặc dù
không có vai trò dinh dưỡng nhưng cũng có vai trò chống ô xy hóa, đặc biệt là
các bioflavonoid có ở trong chè, rượu
vang, nước quả nho và ở vỏ nhiều loại quả.
Lời khuyên được các nhà dinh
dưỡng khuyến cáo: tăng cường sử dụng các loại rau tươi và quả là những thức ăn
giàu các chất chống ô xy hóa để phòng chống các bệnh tim mạch. Việc bổ sung các
chất chống ô xy hóa cũng như tăng cường trong chế độ ăn chỉ nên coi là liệu
pháp hỗ trợ cho các biện pháp đã biết như: ngừng hút thuốc lá, giám sát huyết
áp và cholesterol, tránh béo phì và tăng cường hoạt động thể lực.
Các chất hóa thực vật
Các chất hóa thực vật là các
phức hợp có hoạt tính sinh học tìm thấy ở quả, rau và các loại hạt nguyên vẹn.
Nhiều nghiên cứu dịch tễ và lâm sàng cho thấy các hợp chất này có vai trò giảm
nguy cơ bệnh tim mạch và ung thư. Chẳng hạn như: flavonoid là các hợp chất đa
phenol có ở rau quả, hạt có vỏ cứng, chè và rượu vang. Flavonol và flavon là
các nhóm trong flavonoid có vai trò đối với bệnh tim mạch theo các cơ chế khác
nhau. Đậu tương có nhiều isoflavon có tác dụng giảm cholesterol huyết thanh.
Các thực phẩm thực vật có
sunfua thuộc họ hành, tỏi, chủ yếu dưới dạng các dẫn xuất của cystein đã được
nhiều công trình kiểm chứng cho thấy: hành và tỏi có tác dụng giảm cholesterol,
giảm nguy cơ tắc mạch và ức chế ngưng tụ tiểu cầu. Đã có nghiên cứu đưa ra
rằng, mỗi ngày dùng một nhánh tỏi có thể làm giảm 0,59 mmol/l (23mg/dl)
cholesterol, tuy vậy các kết quả còn chưa nhất quán.
Vũ Hải