Chớ quên tên các loại hình nghệ thuật

Đã gọi là thơ thì không thể không… thơ. Như thế nào là thơ? Xin được trở lại khái niệm này như một sự định nghĩa nôm na dễ hiểu, chứ không lý luận cao siêu.

15.6037

Lâu nay, vẫn xảy ra một hiện tượng: Có một số tác giả vì quá ham tìm những cách biểu hiện mới lạ mà trở nên thái quá, dẫn đến việc tác phẩm đi quá xa đến mức không còn là chủng loại. Có lẽ rõ nhất là trong thơ. Đã gọi là thơ thì không thể không… thơ. Như thế nào là thơ? Xin được trở lại khái niệm này như một sự định nghĩa nôm na dễ hiểu, chứ không lý luận cao siêu. Thơ phải có hai yếu tố: một là có vần điệu; hai là phải đẹp, lãng mạn ,“hư” một chút chứ không nên quá “thực”. Ở yếu tố thứ nhất – vần điệu – thì dứt khoát thơ không chấp nhận bất vần. Không ít những bài thơ chứa những khổ thơ đại loại:

Em đi
để lại trong anh một khoảng trống
không  gì có thể lấp được
Dù có vô vàn niềm vui khác
Cũng không thể thay thế em

Đó là những câu thơ đăng trên một tờ báo gần đây. Tất cả những câu chữ trong bài viết này, vì để giữ thể diện cho tác giả và tờ báo, tôi xin miễn nói tên cụ thể. Mấy câu trên khác gì câu nói cửa miệng hàng ngày (khẩu ngữ)? Sao có thể được coi là thơ? Chưa kể ý tứ quá bình thường, nói điều ai cũng thấy, người ta vẫn nói từ lâu, tác giả chẳng có một chút tư duy, lao động gì. Và đây là một “tìm tòi” theo kiểu thơ leo thang cũng đã cũ rích:

                                      mặt trời
mọc
rồi
lặn

Em
đến
rồi
đi
Để lại
cho tôi
cô đơn
hẫng hụt…

Bất chấp vần điệu, cố ý “leo thang”, chỉ tổ tốn diện tích báo. Còn nội dung thì rất khiên cưỡng, vô nghĩa khi so sánh “em đến rồi đi” với “mặt trời mọc rồi lặn”( “mặt trời mọc rồi lặn”là chu kỳ thời gian tất yếu, còn “em đến rồi đi” có thể chẳng bao giờ gặp lại). Thậm chí, thơ lục bát cũng không có vần :

                   Ta đi giữa cánh đồng làng
Càng thêm gắn bó với quê hương mình.

Còn yếu tố thứ hai – thơ – nghĩa là phải đẹp, lãng mạn, hư – thì không ít người vi phạm. Yếu tố này – bản chất của thơ – không chấp nhận mọi sự phô diễn trần trụi, “nôm na mánh qué”, dung tục, thô thiển, sa đà vào những cái vụn vặt, phản thẩm mĩ. Có một vài người nào đó đã say sưa khai thác phần bản năng (libido), phần CON, thể hiện sự khát thèm nhục dục xa với phần NGƯỜI, phần nhân văn cao cả chính là nằm trong khuynh hướng này . Họ đã ngộ nhận đó là tìm tòi, sáng tạo. Đáng tiếc, có một vài người được coi là “nhà thơ” đã hào hứng cổ súy. Thật không thể tưởng tượng những câu chữ sau đây lại được coi là thơ và đăng ở một tạp chí:

                             Đêm hoang
lớp nhớp bùn đỏ
nhờn như mỡ
Dấp dính hồ

Dấp dính keo

Không phải ngẫu nhiên mà người ta vẫn nói “đẹp như thơ”, “phong cảnh nên thơ”… Như vậy, nói đến thơ, mặc nhiên người ta nghĩ đến những gì đẹp, thánh thiện nhất. Tất nhiên, nói vậy không có nghĩa thơ không được biếu hiện những mặt trái của cuộc sống, những thứ phản nhân văn nhưng dẫu nói bất cứ điều gì cũng phải nói bằng ngôn ngữ của thơ, tức là không chấp nhận những ngôn từ phi thẩm mỹ, phản nghệ thuật.

Nhìn sang địa hạt âm nhạc, ta cũng dễ thấy không ít người sáng tác quên rằng âm nhạc là phải có nhạc điệu nên đã tạo nên những ca khúc có giai điệu trúc trắc, người nghe vẫn nhận xét là “ngang phè phè”. Bản thân từ “giai điệu” đã hàm nghĩa đẹp, hấp dẫn của giai điệu (“giai”: đẹp). Trong một ca khúc ngắn nhưng nhiều người sáng tác đã lạm dụng những thủ pháp ly điệu, chuyển điệu để cố tạo cho bài hát của mình màu sắc mới mẻ. Song, hiệu quả đã phản lại dụng ý của người viết. Hãy nghe dân ca Việt Nam. Tại sao ai cũng thích thú? Dễ hiếu, bởi đó là những bài vừa ngắn gọn, lại có giai điệu rất uyển chuyển, rất đẹp, giàu sức gợi tả, giàu hình tượng âm thanh. Ta không thấy bài dân ca nào nghe lại ngang, trúc trắc. Tất nhiên, không phải bài nào cũng hay. Nhưng lại ở vẻ lôi cuốn của giai điệu chứ không phải là không có yếu tố giai điệu.

Kịch là vở diễn trên sân khấu được tổ chức bởi  những mâu thuẫn, xung đột của những nhân vật qua hệ thống hành động (gồm hành vi và lời nói) . Khi mâu thuẫn được tập trung đến đỉnh điểm (thắt nút) thì dẫn tới phải “cởi nút” để giải quyết, kết thúc kịch. Bản thân từ kịch có nghĩa là kịch liệt, là căng thẳng. Không đạt được như vậy thì không thể là kịch. Nhưng mâu thuẫn nói ở đây không có nghĩa chỉ là mâu thuẫn giữa ta và địch, giữa thiện và ác, cái tốt và cái xấu, tích cực và tiêu cực mà còn là mâu thuẫn trong bản thân các tình huống, trong nội tâm của con người. Vậy nên sẽ rất giỏi, cao tay nếu trong vở kịch toàn những nhân vật tốt, có tính cách cao đẹp mà người xem vẫn thấy rất “căng”, phải hồi hộp theo dõi, như vở kịch nói Nguồn sáng trong đời của Lưu Quang Vũ là một ví dụ điển hình.

Dù có sáng tạo, cách tân thế nào chăng nữa cũng không thể chệch khỏi đặc thù đó của chủng loại – điều khiến nó mang tên: kịch. Nhưng đã không ít người quên mất cái tên chủng loại nghệ thuật này để biến sân khấu thành nơi cho các nhân vật  “đọc kịch bản “ nhằm thuyết minh cho ý đồ tư tưởng định sẵn  của tác giả. Có thể gọi đó như một thể “ký” của sân khấu, chỉ là việc diễn viên vào vai rồi lên sân khấu kể chuyện bằng đối thoại. Trong liên hoan sân khấu thử nghiệm do hội NSSK tổ chức vào đầu tháng 12/2008, ghi nhận sự cố gắng tìm tòi để “thử” của rất nhiều đơn vị sân khấu cả nước. Nhưng nhiều vở đã không còn là kịch theo những quy chuẩn của chủng loại như đã nói, bởi chỉ là mớ đối thoại rất bề bộn nhằm ẩn dụ những điều sâu xa nào đó mà tác giả muốn gửi đến khán giả.

Sang sông là một trường hợp tiêu biểu cho khuynh hướng này. Sao có thể gọi đó là kịch khi không hề có sự tập trung mâu thuẫn, xung đột dẫn đến cao trào của hệ thống nhân vật trong vở? Các nhân vật trên sân khấu thay nhau nói những lời đầy tính triết lý, ẩn dụ cho những tư tưởng, ý nghĩ đã định trước. Đã đành là thử nghiệm, song, nên chăng là cho ra đời một chủng loại khác gần với kịch chứ không phải là kịch . Việc vở này chỉ nhận được sự tán dương (nếu có) trong nội bộ những người làm nghề mà không được người xem bình thường hưởng ứng là điều rất đáng để các tác giả phải suy nghĩ. Thực ra, mấy chục năm trước, những năm 1965 – 1966, Trần Vượng đã có ý thử nghiệm loại kịch thiên về hành động mà coi nhẹ xung đột qua vở Bức tranh mùa gặt (đoàn kịch nói Hà Nội dựng). Đó là một vở tốt, song, chưa thể nói được là thành công. Vậy nên vẫn phải trở lại yêu cầu của loại hình này: phải có xung đột. Yếu tố này càng căng, mãnh liệt, kịch càng hấp dẫn .

Sang lĩnh vực điện ảnh. Không ít người làm phim quên yêu cầu đầu tiên của loại hình này: kể chuyện, miêu tả, phản ánh, biểu hiện bằng hình ảnh chuyển động là chính, chứ không phải là ở lời thoại (như sân khấu). Vậy nên đã có rất nhiều phim để nhân vật nói quá nhiều, gần như từ đầu đến cuối chỉ là liên tục đối thoại, còn hình ảnh rất ít tìm tòi, không có được những khuôn hình giàu biểu cảm, đặc sắc về ngôn ngữ điện ảnh. Những phim nổi tiếng nhất trong lịch sử điện ảnh thế giới như: Ông già và biển cả, Cuốn theo chiều gió, Số phận một con người v.v…. đều không có sự lạm dụng của lời thoại mà chủ yếu vẫn là hình ảnh được tìm tòi rất công phu cộng với tài năng diễn xuất đặc biệt của diễn viên. Phim truyện của ta cũng có một số đạt được yêu cầu này và đó thực sự là những phim hay: Bao giờ cho đến tháng 10, Con chim vành khuyên, Cánh đồng hoang, Mùa ổi… Song, nhìn chung, đại đa số các phim Việt Nam vẫn sa đà vào đối thoại mà xao nhãng ngôn ngữ hình ảnh. Vậy thì sao còn gọi là điện ảnh?

Đó là mấy loại hình văn nghệ chính mà một số người sáng tác đã lãng quên đặc thù ngôn ngữ riêng làm nên bản chất qua cái tên của chủng loại .Thiết nghĩ, cần luôn trở lại những cái tên đó từ khi ra đời: thơ, nhạc, kịch, điện ảnh… Rời xa, sẽ là sự lầm lạc khó được công chúng chấp nhận.

Nguồn:
0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]