Chữa bệnh bằng 'đồ vứt đi'

Khi ăn quả, ít ai để ý đến các phần thừa như vỏ quả, vỏ hạt, hạt. Tuy nhiên, chính những đồ vứt đi này lại có tác dụng chữa bệnh, chẳng hạn vỏ quýt, hạt đào, hạt chanh, gương sen đã lấy hạt, tai hồng...

15.5981

Vỏ quýt: Vỏ quýt xanh có tên là thanh bì, vỏ quýt chín phơi khô là trần bì. Vỏ quýt tươi chứa nhiều tinh dầu, caroten, vitamin A, B, hesperidin. Vỏ quýt khô càng để lâu năm càng tốt. Dược liệu có tác dụng làm khỏe dạ dày, hóa đờm, chữa ăn không tiêu, đau bụng, ho tức ngực, sốt rét. Liều dùng 4-12 g/ngày dưới dạng thuốc sắc; dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác trong các trường hợp sau:

Đau bụng, nôn mửa, ợ hơi, tiêu hóa kém: Trần bì 8 g, hoặc hương 8 g, gừng sống 3 lát, sắc với 200 ml nước còn 50 ml, uống một lần trong ngày.

Ho gà: Trần bì 20 g, vỏ rễ dâu tẩm mật 20 g, hoa đu đủ đực 20 g, bách bộ 12 g, phèn phi 10 g. Tất cả tán nhỏ, rây bột mịn. Trẻ em 1-5 tuổi mỗi lần uống 1-4 g, 6-10 tuổi mỗi lần 4-8 g. Ngày 3 lần.

Tinh hoàn sưng đau: Trần bì, hạt vải (thái mỏng, phơi rồi sao), đại hồi, lượng mỗi thứ bằng nhau, tán nhỏ, rây bột mịn. Mỗi ngày uống 4-8 g chiêu với ít rượu, chia làm 2 lần.

Hạt đào: Hạt đào chín lấy nhân, phơi hoặc sấy khô. Khi dùng, để nguyên vỏ lụa và đầu nhọn, giã dập, dùng sống có tác dụng phá ứ huyết; hoặc ngâm nước nóng cho tróc vỏ lụa, cắt bỏ đầu nhọn, sao vàng để hoạt huyết. Dược liệu có tên là đào nhân, có tác dụng khử ứ trệ, nhuận tràng, lợi tiểu, điều kinh, giảm ho.

Bế kinh, ứ huyết: Đào nhân 6 g, đương quy 10 g, xích thược 10 g, hồng hoa 5 g, xuyên khung 3 g. Tất cả thái nhỏ phơi khô, sắc với 400 ml nước còn 100 ml, uống làm hai lần trong ngày.

Kinh nguyệt không đều, đau bụng kinh: Đào nhân, hồng hoa, ngưu tất, tô mộc, mần tưởi, nghệ vàng mỗi vị 8-10 g, sắc ngày uống 1 thang.

Ho suyễn, khó thở: Đào nhân 10 g, giã nhỏ cho vào nấu với 50 g gạo nếp thành cháo ăn trong ngày.

Hạt chanh: Vị đắng, tính ôn, có tác dụng hóa đờm, nhuận tràng, giải độc.

Chữa ho lâu ngày: Hạt chanh 10 g, hạt quất 10 g, lá thạch xương bồ 10 g, mật gà đen 1 cái. Tất cả dùng tươi, giã nhỏ, thêm đường, hấp chín, uống làm 2-3 lần trong ngày.

Chữa ho trẻ em: Hạt chanh 10 g, lá hẹ 15 g, hoa đu đủ đực 15 g, nước 20 ml. Các dược liệu nghiền nát, hòa với nước, thêm mật ong hoặc đường kính, uống làm 3 lần trong ngày.

Chữa táo bón: Hạt chanh vừa tách ra khỏi múi quả 10-20 g ngâm vào chén nước nóng trong vài giờ. Chắt nước dính bao quanh hạt sẽ nở và tan ra cho một dung dịch đặc nhầy, thêm đường, uống một lần trong ngày.

Chữa rắn cắn: Hạt chanh tươi hoặc phơi khô 10-20 g, giã nát, thêm nước, gạn uống, lấy bã đắp.

Tai hồng: Là phần lá đài khô ở quả hồng chín, có tên thuốc là thị đế. Thành phần hóa học chủ yếu trong tai hồng là tanin.

Đái dầm: Tai hồng 8-16 g thái nhỏ, phơi khô, sắc uống làm một lần vào buổi tối trước khi ngủ.

Nấc: Tai hồng 8 g, đinh hương 8 g, gừng 5 lát. Sắc uống làm 2-3 lần trong ngày.

Nôn mửa, lo nghĩ, phiền uất: Tai hồng 7 cái, hồ tiêu 7 hạt, hoắc hương 4 g, sa nhân 4 g, gừng 7 lát, tỏi 3 nhánh, hành 2 củ. Tất cả băm nhỏ, sắc uống trong ngày. Cuống quả hồng đôi khi cũng được dùng với công dụng tương tự như tai hồng.

Gương sen: Đế của hoa sen đã gỡ hết quả già có tên thuốc là liên phòng.

Băng huyết: Gương sen 2 cái, hương phụ 80 g, sao cháy tồn tính, tán nhỏ, ngày uống 16 g chia làm 2 lần. Hoặc gương sen 2 cái, buồng cau điếc 40 g, phơi khô, cắt nhỏ, nấu lấy nước đặc, uống làm hai lần trong ngày

Rong huyết: Gương sen sao tồn tính 20 g, kinh giới tuệ sao đen 20 g, ngải cứu sao đen 12 g, cỏ nhọ nồi 12 g, rau má 20 g, bách thảo xương 12 g, sắc uống làm hai lần trong ngày.

Kinh nguyệt ra nhiều: Gương sen đốt tồn tính, tán nhỏ; hoa phù dung (loại mới nở) phơi hoặc sấy khô, tán bột. Hai thứ lượng bằng nhau, trộn đều. Ngày uống 2 lần, mỗi lần 8 g với nước cơm.

Quả na điếc: Quả na đang lớn bị một loại nấm làm hỏng, tự khô xác cứng rắn, màu nâu đỏ tím.

Nhọt ở vú, áp xe, quai bị: Quả na điếc 10-20 g, phơi thật khô, tán thành bột rồi hòa với giấm, bôi nhiều lần trong ngày.

Chữa tiêu chảy, kiết lỵ: Quả na điếc 20 g, đốt tồn tính, ngọn non cỏ lào 50 g, gạo tẻ rang thật vàng 30 g, sắc uống trong ngày.

Vỏ hạt đậu xanh: Có tác dụng thanh nhiệt, giải khát, giải độc, làm sáng mắt, tiêu viêm, lợi tiểu.

Y học cổ truyền dùng vỏ hạt đậu xanh phối hợp với sinh địa, huyền sâm, thạch cao, huyền minh phấn, cam thảo mỗi vị 10 g, phơi khô, nghiền nhỏ, sắc uống chữa sốt cao, mê man, co giật. Để chữa ngộ độc cà độc dược, lấy vỏ hạt đậu xanh 80 g, kim ngân hoa 40 g, liên kiều 20 g, cam thảo 10 g; sắc uống ngày 1 thang.

Theo kinh nghiệm dân gian, vỏ hạt đậu xanh phơi khô, nhồi vào túi vải để gối đầu, tạo cảm giác mát, dễ chịu, chống nhức đầu, nhất là về mùa nóng ẩm. Vỏ hạt đậu xanh sắc lấy nước đặc, thêm đường cho ngọt, uống để chữa ngộ độc nói chung, nấm độc, say nắng. Khi bị cảm nóng ra nhiều mồ hôi, có thể nấu nước vỏ hạt đậu xanh 10 g với lá dâu non 16 g, lá tía tô 12 g mà uống. 

Chữa sốt cao, mê sảng: Vỏ hạt đậu xanh 12 g, kim ngân hoa 12 g, lá tre 12 g, bạc hà 8 g, kinh giới 6 g, sắc uống. 

(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)

 

Gửi câu hỏi tư vấn tại đây hoặc về [email protected]
 
0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]