Nước ta có khí hậu
nóng và ẩm nên rất thích hợp với sự phát triển của cây cối. Tùy theo tính năng
sử dụng, người ta chia ra nhiều loại cây như cây công nghiệp, cây ăn quả, cây
làm cảnh, cây làm thuốc... Trong các cây làm thuốc, tùy theo tính dược và theo
kinh nghiệm mà người ta dùng các bộ phận hoa, lá, cành, quả, rễ. Trong phạm vi
bài này, xin giới thiệu cùng bạn đọc một số loại rễ cây chữa bệnh rất thông
dụng, dễ tìm, dễ chế biến, lại có hiệu quả cao.
Rễ cây râm bụt: Râm bụt mọc ở mọi nơi. Bà con thường trồng
làm hàng rào, hoa màu đỏ rất đẹp. Cả cây râm bụt đều có
tác dụng làm thuốc. Hoa
và lá giã nhỏ, cho thêm ít muối, đắp lên mụn nhọt sẽ tan, còn rễ sắc với một
vài vị thuốc sau chữa các bệnh kinh nguyệt không đều, khí hư bạch đới,
lợi tiểu
và giải độc.
Bài thuốc: Rễ râm bụt 25g, rau má 20g, ích mẫu 20g, hương
phụ 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
Rễ cây gai: Cây gai dễ sống, dễ trồng. Khắp mọi miền ở nước
ta nhân dân trồng gai để lấy lá làm bánh, vỏ cây gai làm sợi dệt vải, làm dây
buộc. Rễ gai dùng làm thuốc, thu hái quanh năm. Theo tài liệu, rễ gai có vị
ngọt, tính hàn, không độc, có tác dụng tả nhiệt, tán ứ, chữa phụ nữ có thai đau
bụng, động thai, rỉ ối nước vàng hoặc đỏ, còn dùng chữa sa dạ con, sa trực
tràng, lợi tiểu.
Bài thuốc: Rễ gai 8g, cành tía tô 6g, ngải cứu 4g. Sắc uống
ngày 1 thang. Có thể dùng độc vị rễ cây gai tươi hoặc khô sắc uống ngày 3 bát
con, chia làm 3 lần.
Rễ cây dứa: Dứa được trồng để ăn quả, dứa còn là nguyên liệu
để chế biến trong ngành công nghiệp. Nhân dân ta dùng rễ cây dứa chữa bệnh đái
buốt, đái rắt, sỏi đường tiết niệu.
Bài thuốc: Rễ dứa (rễ non tốt hơn già), rửa sạch, phơi hoặc
sấy khô dùng dần. Có thể dùng rễ tươi ngày 6-10g sắc uống. Còn bã rễ dứa đắp
vào hậu môn chữa bệnh lòi dom.
Rễ cây lựu: Cây lựu trồng làm cảnh, quả lựu ăn ngon, mát bổ,
lại vừa là cây thuốc chữa bệnh. Rễ lựu sau khi lấy về, phơi hay sấy khô, nên
dùng ngay, không nên để quá 1 năm vì không còn tác dụng mà lại gây độc. Rễ lựu
dùng để điều trị giun sán. Tẩy sán rất đặc hiệu và kết quả cao. Không dùng cho
trẻ em và phụ nữ có thai.
Bài thuốc: Rễ lựu 40g, đại hoàng 4g, hạt cau 4g. Cho 50ml
nước, sắc còn 300ml. Tối hôm trước nhịn ăn, sáng hôm sau uống làm 3 lần, mỗi
lần cách nhau 1 giờ. Nằm nghỉ ngơi. Khi đi ngoài thấy thân sán ra là có kết
quả, nên ngâm mông vào chậu nước ấm để đầu sán ra hết, nếu để lạnh, đầu sán hay
bị đứt.
Rễ cỏ tranh: Còng ọi là cỏ gianh. Cỏ tranh mọc hoang ở khắp
nơi, nhất là vùng đồi núi. Theo tài liệu Đông y, rễ cỏ tranh có vị ngọt, tính
mát, có thể dùng tươi hoặc khô. Tác dụng lợi tiểu, trị vàng da và các chứng ra
máu. Phụ nữ có thai không được dùng.
Bài thuốc: Rễ cỏ tranh 30g, râu ngô 40g, sa tiền tử 25g, hoa
cúc 5g. Nấu với 1 lít nước, để nguội, uống trong ngày.
Rễ cỏ xước: Còn có tên là ngưu tất. Mọc hoang nhiều nơi. Có
thể dùng tươi hoặc dùng khô. Thu hái quanh năm. Theo y học phương đông, cỏ xước
có vị chua, đắng, tính bình, không độc. Vào hai kinh can và thận. Có tác dụng
phá huyết hành ứ (nếu dùng sống). Bổ can thận, mạnh gân cốt (nếu dùng chín).
Chữa các bệnh viêm khớp, đau bụng, kinh nguyệt khó ra. Ngày dùng 8-10 g, sắc
uống.
Bài thuốc: Rễ cỏ xước sao vàng 10g, lá bạc hà 5g, cỏ mần
trầu 6g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần.
Rễ cây rẻ quạt: Còn có tên là xạ can, vừa là cây cảnh, toàn
bộ cây lại dùng làm thuốc. Rễ có tác dụng chữa bệnh. Thu hoạch vào mùa xuân và
thu. Theo tài liệu cổ, rẻ quạt có vị đắng, cay, tính hàn, hơi độc. Đi vào hai
kinh can và phế. Có tác dụng thanh hỏa, giải độc, tán huyết, tiêu đờm. Chữa
viêm họng, viêm thanh quản, viêm phế quản. Rẻ quạt còn có tác dụng chữa đại
tiểu tiện không thông, tắc tia sữa và rắn cắn.
Bài thuốc: Rễ rẻ quạt 4g, hoàng cầm 2g, cam thảo 2g, cát
cánh 2g. Tất cả sắc uống ngày 1 thang.
Rễ cây sầu riêng: Thường có nhiều ở vùng Nam Bộ. Quả ăn rất
thơm, ngon và bổ. Lá và rễ phơi khô dùng chữa bệnh. Công dụng chữa bệnh gan,
vàng da và sốt. Ngày dùng 10-16g rễ và lá non, sắc uống ngày 2 lần.
Rễ cây bướm bạc: Còn gọi là cây hoa bướm. Cây mọc hoang khắp
nơi, nhất là vùng rừng núi. Rễ và hoa đều là thuốc chữa bệnh. Thu hái quanh
năm, đem về phơi hay sấy khô dùng dần. Theo tài liệu cổ, cây bướm bạc có vị
ngọt, tính mát. Tác dụng giải nhiệt, trị sốt nóng, lợi tiểu, viêm tấy, giảm đau
xương khớp, chữa tê thấp.
Bài thuốc: Rễ cây bướm bạc 30g, lá rẻ quạt 2g, húng chanh
10g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 lần.
Alobacsi.vn
Theo Sức khỏe & đời sống