Rét làm cho cơ thể bị mất nhiệt. Để giữ thân nhiệt ổn định,
cơ thể phải tăng cường quá trình tạo nhiệt, tăng cường quá trình trao đổi chất
(chuyển hóa cơ bản có thể tăng tới 50 - 100% khi trời lạnh vừa phải, 160 - 180%
khi trời quá lạnh); đồng thời phải hạn chế sự tỏa nhiệt bằng cách co các mạch
máu ở ngoại vi và tăng chuyển máu vào nội tạng. Do vậy, khi rét quá sẽ thấy run
lập cập, nổi da gà hay sởn gai ốc.
Nếu bị rét kéo dài, cơ thể bị mất nhiều nhiệt, các ngón
tay, ngón chân tê cóng, cử động khó khăn, dinh dưỡng của các mô trong sâu cũng
bị ảnh hưởng, nhiều chức phận của cơ thể bị rối loạn, sức đề kháng với bệnh tật
bị giảm sút.
Trẻ nhỏ dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường hô hấp cấp tính,
và các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm (như sởi, ho gà, thủy đậu, bạch hầu, viêm
màng não...).
Các bệnh loét dạ dày - tá tràng, hen suyễn, thấp khớp, lao
phổi... thường vượng lên. Người có bệnh tăng huyết áp dễ bị tai biến mạch máu
não. Phụ nữ có thai dễ bị sản giật.
Khi nhiệt độ ngoài trời xuống dưới 15oC, độ ẩm không khí
tăng trên 90%, cơ thể rất dễ bị cảm lạnh. Nông dân trên đồng nước, công nhân
làm đường, đang thi công trên công trường thủy điện hay đi lâu ở ngoài trời
lạnh, gió lộng... rất dễ bị cảm lạnh.
Cứu người bị cảm
lạnh
Khi thấy người khó ở, mệt mỏi, nhức đầu, đau cổ, đau mình mẩy,
ớn lạnh, rùng mình, nghẹt mũi, ho... cần nhanh chóng cho nạn nhân vào nơi kín
gió, cởi bỏ quần áo ướt, thay quần áo khô, đắp chăn ấm hoặc sưởi ấm; cho uống
nước gừng nóng hoặc nước chè nóng và tìm cách giải cảm ngay.
Có thể áp dụng một số cách giải cảm đơn giản, dễ kiếm mà
hiệu quả như bà con ta vẫn làm như:
1. Ăn cháo giải cảm
Lấy 20g hành tăm (để cả rễ) rửa sạch, thái nhỏ; 10g gừng
tươi cạo vỏ, giã nhỏ; và nửa lạng gạo nếp. Sau khi nấu nhừ cháo, đổ cả gừng và
hành vào nồi cháo, khuấy đều, cho muối vừa đủ; ăn khi cháo đang nóng. Ăn xong,
trùm chăn cho ra mồ hôi. Khi mồ hôi đã ra đều khắp người thì bỏ chăn ra, lau
khô người, thay quần áo; nằm nghỉ. Phòng nghỉ cần thoáng, ấm, không có gió.
2. Xông
Lấy lá chanh, lá bưởi, lá hương nhu, lá sả (hoặc củ sả), lá
cúc tần, lá tre, cỏ màn trầu mỗi thứ một nắm; nếu có đau mình mẩy, cho thêm nắm
lá duối. Tất cả bỏ vào nồi, đổ ngập nước, bịt miệng nồi bằng lá chuối, đậy
vung, đun sôi; rồi đặt nồi nước xông lên
giường.
Người bệnh ngồi trên giường, cởi trần, mặt quay về phía nồi
nước xông, trùm chăn kín, tự mở nắp vung, lấy đũa dài chọc thủng lớp lá chuối
bịt miệng nồi, khuấy đều nước để hơi nước phả vào ngực, vào đầu, mặt, cổ; hít
thở sâu và chậm rãi cho mồ hôi ra đều khắp người. Xông xong, lau khô mồ hôi,
thay quần áo; uống nửa bát nước xông; nằm nghỉ ở phòng thoáng, ấm, tránh gió
lùa.
Ngày xông 1 lần. Hôm sau nếu còn sốt, có thể xông thêm một
lần nữa.
Lưu ý:
- Chỉ xông cảm cho người lớn hoặc trẻ lớn; và phải để phòng
bị bỏng vì có thể làm đổ nước trong khi xông.
- Không xông khi đã ra mồ hôi (đề phòng “ngộ hãn”); không
xông khi thấy sốt tăng lên về chiều và tối, người mệt mỏi, ly bì.
3. Xông mũi bằng dầu cao Sao Vàng hoặc dầu gió
Lấy một cốc nước sôi, cho vào một tí dầu cao Sao Vàng hoặc
1-2 giọt dầu gió. Để mũi trên miệng cốc, thở hít vào sâu, chậm rãi.
Lưu ý: không để
hơi thuốc xông vào mắt.
4. Đánh gió bằng dầu cao Sao Vàng
Bôi dầu cao dọc sống lưng từ gáy đến thắt lưng. Dùng nắp
hộp (phần có gờ tròn) cạo nhẹ hai bên cột sống từ gáy xuống đến mông cho đến
khi da dọc cột sống ửng đỏ, da vùng vai hai bên mềm mại như khi bình thường là
được.
Theo Sức khoẻ
& Đời sống