Làng Ngọc Tiên thuộc xã Xuân Hồng,
huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định là một vùng quê trù phú, cảnh quan cổ kính, lễ
nghi phong tục phong phú và đa dạng, nên dân chúng khắp nơi thường tìm về chiêm
ngưỡng, lễ bái, nhất là vào các ngày lễ trọng. Đặc biệt, làng có hội thi thổi
cơm và làm cỗ chay rất độc đáo.
Để tưởng nhớ công ơn của Thành hoàng làng đã có công xây dựng làng xã, Ngài
không những giỏi về mặt binh pháp mà còn giỏi cả về mặt chỉ đạo hậu cần, hàng
năm, cứ đến ngày 15 tháng Giêng, dân làng Ngọc Tiên lại mở hội để con cháu trong
làng và dân quanh vùng về dự hội.
Hội làng được mở từ ngày 12 đến 15 tháng Giêng. Trước khi chuẩn bị vào hội, các
giáp đi sưu tầm, mua những cây luồng, bương to với chiều cao không dưới 25m để
về làm cây nêu.
Cây nêu dựng lên có ý nghĩa ngăn ngừa không cho quỷ dữ từ Biển Đông vào đất liền
quấy nhiễu cuộc sống của dân làng; mặt khác cũng là trục nối giữa Trời và Đất
cầu mong cho một cuộc sống yên bình hơn.
Trong những ngày diễn ra lễ hội, ngoài nội dung tế, lễ, rước kiệu còn có các
hoạt động văn hóa dân gian như đu tiên, leo cầu ngô trên mặt nước, bắt vịt, bốc
bồi, cờ tướng, kéo co... Nhưng độc đáo, sinh động và náo nhiệt nhất vẫn là trò
thổi cơm thi và làm cỗ chay dâng thánh thần tổ tiên. Đây là cuộc thi có ý nghĩa
diễn lại cảnh sinh hoạt của nghĩa binh xưa dấy binh đánh giặc thiếu thốn mọi bề
vừa hành quân vừa lo hậu cần, tích cốc phòng cơ cho những khi thiếu đói.
Hàng năm, từ ngày 12 đến 15 tháng Giêng, làng Ngọc Tiên lại mở hội thổi
cơm thi
và nấu cỗ chay
Tục thổi cơm thi của làng Ngọc Tiên diễn ra theo một quy trình khép kín từ việc
lấy nước (địch thủy), tạo lửa (địch hỏa), đến thổi cơm làm bánh. Đây cũng chính
là nét độc đáo hấp dẫn làm nên đặc trưng của hội làng Ngọc Tiên so với các vùng
quê khác.
Thể lệ cuộc thi về cơ bản như sau: Các giáp phải trải qua hai phần thi lấy nước
(địch thủy) và kéo lửa (địch hỏa). Chỉ khi có nước, có lửa thì thổi cơm thi mới
được bắt đầu.
Ở phần thi địch thủy, mỗi giáp cử ra hai người, tay cầm một chiếc nậm nhỏ, đồng
loạt chạy ra bến Cựa Gà, lội ra giữa dòng sông Ninh lấy cho đầy nậm nước mang về
đổ vào nồi. Trong quá trình chạy lấy nước, ngón tay cái phải bịt chặt miệng nậm
để nước khỏi sánh ra ngoài. Ai mang nước về nhanh nhất, không làm vương vãi nước
dọc đường là người thắng cuộc.
Trai làng ra sức kéo hai thanh tre khô để tạo lửa
Phần thi địch hỏa được coi là gay cấn nhất lôi cuốn sự chú ý và tạo tâm lý hồi
hộp không chỉ đối với người thi mà còn cả với người xem, bởi có đạt kết quả ở
phần thi này mới được tham dự vòng thi kế tiếp. Hơn nữa, theo quan niệm của
người phương Đông thì việc tạo lửa trong ngày đầu Xuân là điềm lành, mang nhiều
may mắn, thuận lợi. Do đó thao tác nhanh, dứt khoát, tạo lửa khéo và đốt cờ
chính xác là trách nhiệm của mỗi người dự thi đối với nội tộc và xóm làng.
Mỗi giáp vào dự thi mang theo một bộ dụng cụ kéo lửa (địch hỏa) gồm một thanh
cái đặt cố định dưới mặt đất làm bằng tre bánh tẻ, đường kính khoảng 4cm, đã
được chẻ làm đôi tạo kẽ hở cho mùn rơi xuống trong quá trình kéo lửa; một thanh
tre khác dài, mỏng gọi là thanh con (hay thanh dao) được tạo bởi gốc cây tre
già, dùng để cọ sát vào thanh cái.
Khi lửa xuất hiện như đốm than hồng thì cho vào bùi nhùi rơm và ra sức thổi
để
lửa bùng to thành ngọn
Bí quyết chắc thắng trong phần thi này là dụng cụ kéo lửa phải được làm bằng cây
tre chết bụi, phải gác gác bếp ba tháng mới sử dụng được.
Khi vào cuộc, 12 người của sáu giáp xếp thành hàng ngang, tất cả nín thở, cùng
ra sức cọ sát hai thanh tre vào nhau để tạo lửa. Lúc lửa bắt đầu bén thành một
đốm than hồng thì phải ra sức hà hơi thổi để lửa bén vào bùi nhùi rơm bùng lên
thành ngọn lửa lớn. Lúc này cả sân đền mới vang lên tiếng reo hò cổ vũ của dân
làng và khách tham dự.
Khó khăn là thế nhưng quy định cho phần thi kéo lửa chỉ được thao tác trong vòng
từ 15-20 giây. Thường thì bằng sự nỗ lực của bản thân, sự cổ vũ nhiệt tình của
bà con chòm xóm, các chàng trai của làng Ngọc Tiên chỉ mất 12 giây đã tạo được
lửa.
Tất cả các giáp khi đã hoàn thành phần kéo lửa sẽ cùng dân làng rước lửa về sân
đền nấu cỗ, châm bếp bắt đầu phần thi làm bánh, thổi cơm trong tiếng hò reo cổ
vũ náo nhiệt.
Việc thổi cơm do cánh đàn ông đảm nhiệm
Ai đã từng tham dự hội làng Ngọc Tiên mới thấy hết tài năng, sự khéo léo của
người dân nơi đây. Người tham dự phần thi thổi cơm phải phụ trách mọi công việc
từ đeo cần trúc lên vai, cố định niêu cơm, giữ lửa cho cơm chín, vừa đi vừa nấu,
theo sau là cả đoàn rước khua chiêng, gõ trống tưng bừng.
Để cơm chín ngon, dẻo người nấu phải biết phối hợp các động tác
một cách nhịp
nhàng và nhanh chóng
Để hoàn thành tốt phần thi này, người dân làng Ngọc Tiên đã chuẩn bị rất công
phu từ việc chọn từng hạt gạo cho đều nhau và đúng loại gạo ngon. Chiếc cần trúc
treo niêu cơm được quấn giấy ngũ sắc trông rất đẹp.
Việc làm quen với cách ước lượng sao cho đủ nước, đủ lửa, cơm chín nục, dẻo thơm
trong thời gian đi chọn ba vòng rước quanh sân đền bất luận tiết trời đầu Xuân
có mưa bụi giăng mắc hay có rét dài, rét lộc ghé qua.
Sau cuộc thi thổi cơm là cuộc thi làm cỗ chay
Cụ Nguyễn Minh Oanh thuộc lớp người xưa nay hiếm, đã tham gia hội làng từ khi
còn trai trẻ, hiện nay tham gia trong Ban quản lý di tích đền làng Ngọc Tiên cho
biết, chỉ tính riêng việc chuẩn bị cho chiếc cần trúc treo niêu cơm cũng rất mất
công, khi cây măng lên khỏi mặt đất người ta uốn cong theo hình chữ “S” và nuôi
dưỡng thuần hóa đến khi đủ độ dẻo dai, bền chắc thì đẵn xuống, cho cây trúc tắm
qua khói lửa, bồ hóng thêm một thời gian nữa mới đem vào sử dụng. Công đoạn này
ước tính mất gần ba năm.
Người nấu cơm phải ước lượng nên gia lửa, hãm lửa lúc nào để cho cơm sôi bùng,
hạt gạo ngậm no nước, chín đẫy hơi thì cơm mới nục.
Ngoài ra, người thi còn phải
làm
mâm cỗ chay gồm có bốn loại bánh là bánh phong, bánh bìa, bánh ống và bánh
giáo. Qua việc thổi cơm thi, làm cỗ chay dân làng muốn thử thách tài nội trợ của cánh
đàn ông vốn quanh năm không quen với bếp núc.
Trai tráng ra sức giã gạo làm bánh
Sau cuộc thi, cơm và bánh được dâng lên cúng thần Thành hoàng làng
Xưa kia mâm cỗ đạt giải nhất được dành riêng để chánh tổng đem đi biếu các tổng
bạn, vừa tỏ lòng kính trọng, hòa hảo và cũng muốn khoe mỹ tục của tổng mình. Khi
tan hội, cỗ của giáp nào mang về giáp đó, chia đều cho mọi người từ các bậc cao
niên đến các cháu còn ẵm ngửa, người tật nguyền… Nét đẹp đó còn lưu giữ cho đến tận
ngày nay./.