Giãn phế quản: Nguyên nhân, cách phòng ngừa và điều trị

Bệnh giãn phế quản được định nghĩa là giãn không hồi phục một phần của cây phế quản.

15.6149
Có thể giãn ở phế quản lớn trong khi phế quản nhỏ vẫn bình thường hoặc giãn ở phế quản nhỏ trong khi phế quản lớn bình thường.

Nguyên nhân gây giãn phế quản

Do bẩm sinh: Có nhiều hội chứng và nhiều bệnh. Hội chứng Kartagener bao gồm giãn phế quản, phủ tạng đảo ngược và viêm xoang; Hội chứng Williams Campbell do khuyết tật hoặc không có sụn phế quản, nên thì thở vào phế quản phình ra, đến thì thở ra thì phế quản hẹp lại; Hội chứng Mounier Kuhn là khuyết tật cấu trúc tổ chức liên kết ở thành phế quản, làm khí phế quản phì đại; Bệnh xơ hóa kén.

Giãn phế quản: Nguyên nhân, cách phòng ngừađiều trị.

Do viêm nhiễm, hoại tử thành của phế quản: Sau viêm phổi, ho gà, lao phổi, tổ chức sẹo co kéo, gây biến dạng giãn phế quản hậu phát.

Do phế quản bị tắc nghẽn: U phế quản, lao hạch hoặc dị vật rơi vào phế quản; sau chấn thương, phế quản bị gập, tạo thành sẹo xơ dính làm hẹp phế quản, dưới chỗ hẹp thì phế quản giãn.

Giãn phế quản trong Aspergillosis, do sự đáp ứng miễn dịch quá mức của loại nấm này.

Do rối loạn vận động nhung mao thứ phát, trong đó các chất tiết bị ứ trệ, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiễm khuẩn, dẫn đến giãn phế quản.

Cách phòng ngừa giãn phế quản

Vệ sinh răng miệng, bộ phận tai, mũi, họng. Điều trị sớm các bệnh về đường hô hấp như viêm phế quản mạn tính, viêm phế quản cấp, áp-xe phổi cấp và mạn. Tránh tiếp xúc với các chất độc gây hại cho phổi, nên cai thuốc lá.

Rèn luyện thân thể thường xuyên để tăng sức đề kháng của cơ thể (thể dục thể theo liệu pháp, tập thở). Giữ ấm cổ ngực, đề phòng các đợt bội nhiễm khi đã bị giãn phế quản.

Điều trị giãn phế quản

Điều trị nội khoa gồm dùng kháng sinh; lý liệu pháp lồng ngực hàng ngày với dẫn lưu tư thế, vỗ rung lồng ngực, hít thở các thuốc giãn phế quản. Sử dụng kháng sinh dựa trên kháng sinh đồ hoặc dùng gentamyxin phối hợp với nhóm cephalosporin, điều trị cho đến khi hết đờm mủ, thường phải dùng từ 2-4 tuần.

Soi phế quản cần để lượng định ho ra máu, hút các xuất tiết ứ đọng, loại trừ các tổn thương đường thở tắc nghẽn. Chọn tư thế thích hợp để dẫn lưu đờm kết hợp với vỗ rung cho bệnh nhân ho khạc đờm mủ ra ngoài.

Nếu bệnh nhân khó khạc đờm thì cho các thuốc long đờm như: natribenzoat 5%, mucomyst, mucitux, phun mù nước muối ấm, cho uống nhiều nước, cho alpha chymotripsin. Trái lại nếu đờm nhiều loãng, đờm trong không có mủ thì cho giảm tiết bằng atropin hoặc phun atrovent.

Có thể dùng các vị thuốc nam như ăn hành, tỏi sống, uống nhiều nước. Điều trị cầm máu nếu ho ra máu. Có khó thở thì cho theophylin, salbutamol, thở ôxy ngắt quãng.

Điều trị ngoại khoa là biện pháp hữu hiệu nhất nếu điều trị nội khoa không hiệu quả. Thường chỉ định trong các trường hợp giãn phế quản khu trú; ho ra máu nặng đe doạ tính mạng, hoặc dai dẳng, chức năng phổi đảm bảo, điều trị bảo tồn thất bại. Phẫu thuật cắt thuỳ hoặc phân thuỳ phổi.

Theo Phương Vũ - Gia đình Việt Nam

0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]