Ở trẻ em, về cơ thể học và sinh lý học chức năng cơ quan
khác người lớn hay trẻ trưởng thành, tác dụng phụ và biến chứng do dùng thuốc có thể ảnh hưởng đến
tính mạng hoặc di chứng cơ quan nặng nề cho trẻ, nhất là trẻ nhỏ, do đó dùng thuốc phải thận
trọng.
Đặc điểm cơ thể trẻ
Trẻ em là một cơ thể đang lớn và phát triển, chức năng gan, thận của trẻ chưa hoàn thiện, do đó
khả năng chuyển hóa, tích lũy, đào thải kém dễ dẫn đến ngộ độc thuốc.
Thuốc vào cơ thể được gắn với protein để vận chuyển đến nơi cần phát huy tác dụng. Ở trẻ em, khả
năng gắn thuốc với protein còn kém và có sự cạnh tranh giữa các thuốc đồng thời cạnh tranh với
bilirubin tự do dẫn đến một số thuốc không gắn được với protein, dễ gây ngộ độc thuốc và tăng
bilirubin tự do trong máu gây tình trạng vàng da ở trẻ. Ở trẻ em, lượng nước toàn phần và sự phân
bố nước ở trong và ngoài tế bào thay đổi theo lứa tuổi, do đó sự phân bố khối lượng thuốc cũng rất
khác nhau ở từng lứa tuổi.
Một trường hợp trẻ bị ngộ độc thuốc.
Não của trẻ em có nhiều nước, nhiều mạch máu và chức năng hệ thần kinh chưa hoàn chỉnh nên dễ có
tình trạng phản ứng thuốc.
Các đường dùng thuốc ở trẻ nhỏ
Đường uống: Ở trẻ nhỏ, ta thường dùng thuốc nước, thuốc bột. Các loại thuốc viên hay nang khó
uống hơn. Dạng sirô thì không để được lâu.
Không nên ép trẻ nhỏ khi không chịu uống thuốc, vì có thể bị sặc vào đường hô hấp nguy hiểm đến
tính mạng của trẻ. Vì vậy, khi cho trẻ uống thuốc phải dỗ dành. Ở trẻ lớn hơn thì tốc độ hấp thu
thuốc sẽ giảm theo thứ tự sau: dung dịch, huyền phù, viên nén. Nhu động ruột trẻ nhỏ tăng hơn trẻ
lớn nên tốc độ di chuyển thuốc trong ống tiêu hóa nhanh hơn.
Đường tiêm: Tiêm bắp, tiêm tĩnh mạch, tiêm dưới da dùng trong trường hợp bệnh nặng hay nôn mửa,
hôn mê. Đường tiêm thường gây đau và phản ứng thuốc nhiều hơn.
Đường tủy sống: Thường dùng trong trường hợp viêm màng não ở trẻ sơ sinh. Đường dùng này hay có
biến chứng. Không dùng penicillin tiêm tủy sống cho trẻ nhỏ.
Đường hậu môn: Đoạn cuối của ruột già và trực tràng là nơi có thể hấp thu thuốc. Thường dùng
đường này khi trẻ hôn mê, co giật, nôn mửa hay thuốc bị hủy do dịch tiêu hóa. Nhược điểm là sự hấp
thu thuốc không hằng định, một số thuốc có thể gây kích thích tại chỗ cho trực tràng.
Và lưu ý khi dùng
Vì ở trẻ em, về cơ thể học và sinh lý học chức năng cơ quan khác người lớn hay trẻ trưởng thành,
do đó dùng thuốc phải thận trọng, vì tác dụng phụ và biến chứng do dùng thuốc có thể ảnh hưởng đến
tính mạng hoặc di chứng cơ quan nặng nề cho trẻ, nhất là trẻ nhỏ. Bộ Y tế nước ta quy định một số
thuốc thông thường như aspirin, levamisol… không được dùng ở trẻ em, vì aspirin gây hội chứng Reye,
levamisol gây biến chứng thần kinh.
Khi dùng thuốc cho trẻ em, người thầy thuốc phải chú ý: ghi rõ tên thuốc; liều lượng đường dùng
(uống, tiêm…); số lần dùng trong ngày; thời gian dùng; không nên ghi đơn theo viên, ống mà phải ghi
theo đơn vị, gam. miligam... hoặc đậm độ dung dịch, ví dụ adrenalin 0,1% thì phải ghi cụ thể số
mililit. Ngoài ra, trong khi ghi tên thuốc thương mại, phải biết rõ tên gốc chính của nó. Ví dụ:
tifomycin (chloramphenicol), bevitin (vitamin B1)...
Trong khi điều trị cần phải theo dõi các phản ứng gây ra do thuốc, bao gồm: phản ứng do quá liều
(lượng thuốc dùng gần bằng liều lượng độc tính) và phản ứng phụ (khi dùng thuốc với liều lượng
thông thường). Ngoài ra, cần theo dõi phản ứng của trẻ tùy theo giai đoạn tăng trưởng:
Giai đoạn bào thai: một số thuốc người mẹ dùng có thể gây dị tật bẩm sinh như thalidomid gây dị
tật tay chân hải cẩu, testosteron gây nam hóa bào thai nữ.
Giai đoạn thai nhi: các thuốc iod phóng xạ, thiouracil dùng cho mẹ có thể gây bướu giáp ở trẻ
lúc sinh. Các thuốc trị ung thư gây dị tật bẩm sinh, ức chế tăng trưởng. Lúc sắp sinh, các thuốc
giảm đau, thuốc gây mê, thuốc an thần, thuốc hạ huyết áp, thuốc giãn cơ... có thể gây ức chế hô hấp
ở trẻ sơ sinh.
Giai đoạn sơ sinh: Chloramphenicol gây hội chứng xám. Sulfamid dễ gây tích tụ bilirubin gián
tiếp tại nhân xám não bộ. Vitamin K tổng hợp có thể gây tan máu.
Giai đoạn trẻ nhỏ: Các loại thuốc á phiện, morphin và các dẫn xuất, gây ức chế hô hấp nên không
được dùng cho trẻ dưới 3 tuổi.
Phenothiazin gây ra các dấu hiệu thần kinh ngoại tháp.
Vitamin A, D liều cao, quinolon thế hệ 2 có thể gây tăng áp lực sọ não.
Tóm lại, dù dùng thuốc gì, đường nào thì đối với trẻ nhỏ phải hết sức thận trọng, cân nhắc kỹ
lưỡng để hạn chế tối đa các tác dụng không mong muốn do thuốc gây ra cũng như các biến chứng nguy
hiểm trẻ có thể gặp phải khi dùng thuốc.
Theo BS. Ngô Văn Tuấn - Sức khỏe và Đời sống