Hiểm họa do lỵ trực khuẩn

Lỵ trực khuẩn là bệnh viêm đại tràng cấp do Shigella gây ra. Bệnh gây tiêu chảy nhiều lần với tính chất điển hình là phân có nhầy, máu, bệnh nhân bị mất nước và muối, hôn mê và tử vong.

0

Lỵ trực khuẩn là bệnh viêm đại tràng cấp do Shigella gây ra. Bệnh gây tiêu chảy nhiều lần với tính chất điển hình là phân có nhầy, máu, bệnh nhân bị mất nước và muối, hôn mêtử vong. Nguy hiểm nhất là bệnh có thể lây lan thành dịch. Bài viết sau đây sẽ giúp bạn đọc biết cách phòng chống bệnh lỵ trực khuẩn và phân biệt được với bệnh tiêu chảy cấp nguy hiểm đang xảy ra ở một số địa phương hiện nay, đặc biệt trong mùa mưa bão. 

 Vi khuẩn và phương thức lây bệnh

Trực khuẩn Shigella thuộc họ Enterobacteriae (vi khuẩn đường ruột) là vi khuẩn gram âm (-), không tạo bào tử, không di động, ái khí, hoặc kỵ khí, chia ra  4 nhóm: A, B, C, D. Người là nguồn bệnh duy nhất gồm: người mắc bệnh thể cấp, thể mạn tính và người lành mang vi khuẩn. Bệnh nhân mắc thể cấp là nguồn lây bệnh nghiêm trọng nhất, vì họ thải một khối lượng lớn vi khuẩn ra ngoài qua phân. Những bệnh nhân mắc bệnh nhẹ thường không bị cách ly, không được điều trị sớm, bệnh nhân mắc thể mạn, thường là trẻ em, cũng gieo rắc mầm bệnh ở thời kỳ bộc phát. Bệnh lây trực tiếp hoặc gián tiếp qua đường tiêu hóa. Lây trực tiếp là lây từ người bệnh sang người lành do bàn tay nhiễm khuẩn. Lây gián tiếp là lây qua thức ăn, nước uống. Ruồi nhặng làm lây bệnh từ bệnh phẩm sang thức ăn, nhất là ở thành phố và các nơi tập trung đông người. Mọi người đều dễ lây bệnh, không có miễn dịch tự nhiên, trong đó trẻ em và người cao tuổi, người suy dinh dưỡng dễ mắc bệnh lỵ thể nặng với tỷ lệ tử vong cao.

Làm sao biết bị mắc bệnh lỵ trực khuẩn?

Bệnh lỵ trực khuẩn thường cấp diễn, thời kỳ ủ bệnh từ 1 - 7 ngày, bệnh phát đột ngột, không có triệu chứng báo trước với 2 hội chứng: nhiễm khuẩn gồm sốt cao 38 - 39oC, rét run, nhức đầu, mệt mỏi, đau lưng, đau khớp, trẻ em có thể có cơn giật, chán ăn, khát nước, đắng miệng, buồn nôn  hoặc nôn, bạch cầu tăng cao từ 10.000 - 13.000  và hội chứng lỵ gồm: đau bụng, lúc đầu đau âm ỉ quanh rốn, sau lan ra khắp bụng, cuối cùng là những cơn đau quặn bụng, khu trú ở hố chậu trái làm bệnh nhân muốn đại tiện, mót rặn và rát hậu môn khi đại tiện, mỗi ngày đi hơn 10 lần. Lúc đầu phân sệt, sau loãng, rất thối, lẫn với nhầy và máu. Phân nhầy nhiều, thường đục nhờ nhờ, có khi vàng đục như mủ, máu sẫm như máu cá, nhầy và máu hòa loãng với nhau không có độ bám dính, hội chứng lỵ có thể từ 5 - 10 ngày hoặc hơn, tùy thể bệnh và cơ địa của bệnh nhân.

Bệnh lỵ trực khuẩn thường có các thể như sau: thể nhẹ, có hội chứng nhiễm khuẩn nhẹ hoặc không rõ, thân nhiệt 37,5 - 38oC, váng đầu, hơi mệt, hội chứng lỵ đau quặn bụng, đi ngoài dưới 10 lần/ngày, bệnh nhân phục hồi trong vòng 1 tuần. Thể vừa, có hội chứng nhiễm khuẩn và hội chứng lỵ điển hình và dài hơn. Sốt 38 - 40oC, kéo dài từ 1 - 4 ngày, đau đầu, mệt mỏi, mạch nhanh, huyết áp hạ. Đi ngoài từ 15 - 20 lần/ngày, kèm theo mất nước với biểu hiện khát nước, môi khô, nếu điều trị tốt, bệnh nhân sẽ phục hồi sau 7 - 14 ngày. Thể nặng, có hội chứng nhiễm khuẩn rõ rệt, kéo dài hơn 1 tuần, hội chứng lỵ: đau quặn bụng dữ dội, mót rặn kèm mót đái không kìm được, đi ngoài trên 30 lần/ngày, có khi không đếm được, mất nước, rối loạn điện giải. Bệnh nhân kiệt sức, nằm đại tiện tại chỗ, hậu môn mở rộng, phân tự chảy, toàn mủ và máu, mắt trũng, mặt hốc hác, mạch nhanh yếu, nhịp tim mờ, huyết áp hạ, thở gấp, li bì, ngủ gà, có thể tử vong sau 3 - 7 ngày.  Dù điều trị thì sự phục hồi chậm và dễ biến chứng. Lỵ cấp ở trẻ dưới 1 tuổi, có những thể cấp như trên, còn gặp thể rất nhẹ, kín đáo, như rối loạn tiêu hóa: phân loãng, không sốt. Thể dạ dày ruột cấp: nhiễm khuẩn, nhiễm độc thức ăn, nôn nhiều lần, phân loãng, không nhầy máu, đau bụng lan tỏa, sau đó bệnh có thể diễn biến như thể lỵ điển hình. Thể tối độc: hiếm gặp, đi ngoài nhiều, phân nhầy mủ, có khi toàn máu, có thể  tử vong trong vài ngày đầu do hôn mê, trụy tim mạch. Lỵ kéo dài, mạn tính: hay gặp ở trẻ em, có thời kỳ bột phát và thuyên giảm xen kẽ. Bột phát như lỵ cấp nhẹ hoặc vừa, giai đoạn thuyên giảm, vẫn rối loạn tiêu hóa. Ở người cao tuổi, lỵ kéo dài không còn giai đoạn thuyên giảm, bệnh ngày càng nặng, toàn thân suy sụp dần, rối loạn tiêu hóa nặng, thiếu vitamin, thiếu máu.

Chữa trị và phòng bệnh

Bệnh nhân lỵ trực khuẩn phải được cách ly, dụng cụ đều phải dùng riêng. Chế độ ăn: chỉ hạn chế trong một vài ngày đầu, trở lại chế độ ăn bình thường từ ngày thứ ba, thứ tư trở đi. Đối với trẻ còn bú, vẫn cho bú như thường lệ. Trẻ lớn và người lớn, trong vài ngày đầu dùng cháo ninh nhừ, nấu với thịt. Từ ngày thứ ba, thứ tư ăn cháo đặc với thịt, trứng, khoai tây nghiền, sữa chua, sau đó ăn cơm nát, thịt nạc luộc, nước hoa quả. Tránh thức ăn nhiều bã, thảo mộc khô. Thuốc kháng sinh có thể dùng là: cephalosporin thế hệ 3 (ceftriaxon), quinolone thế hệ 1 (acid nalidixic) hoặc fluoroquinolone (ciprofloxacine, ofloxacine) rất hiệu quả.

Bù dịch và điện giải đường uống đối với thể vừa, thể nặng cần truyền dịch là những biện pháp hàng đầu trong điều trị lỵ. Trợ lực dùng vitamin B1, C, chống đau bụng bằng cách chườm nóng, ngâm mông trong nước ấm để chống đau rát hậu môn.

Phòng bệnh: phát hiện sớm, cách ly điều trị bệnh nhân lỵ cấp. Tẩy uế các chất thải bằng vôi sống 20%, nước vôi 10%, dụng cụ, quần áo bệnh nhân phải được sát khuẩn hoặc ngâm cloramin 2%. Bảo vệ người lành: theo dõi 7 ngày đối với người tiếp xúc với bệnh nhân. Ăn chín uống sôi. Rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn uống, sau khi đi vệ sinh và lao động. Không ăn rau sống, không uống nước lã. Không dùng phân tươi để bón ruộng. Tích cực diệt ruồi, nhặng.

ThS. Bùi Quỳnh Nga

15.6223--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]