Hội chứng nhiều vú phụ và nguyên nhân gây bệnh

SKĐS - Những trường hợp vú phụ đã được nói đến từ thời La Mã trong các huyền thoại. Nữ thần Artemis có tầng tầng lớp lớp vú và nhiều nữ thần khác thời cổ đại được mô tả có rất nhiều hàng vú.

0

Hoàng hậu, vợ vua Henry VIII có vú thứ 3. Nhiều người có niềm tin rằng nam giới có vú phụ chứng tỏ có nam tính và có quyền lực của thánh thần. Y văn ít mô tả về các kiểu vú phụ có thể do ý nghĩa về mặt lâm sàng không lớn nhưng hai thập kỷ gần đây chủ đề vú phụ được nói đến nhiều vì sự tranh cãi không ngã ngũ về mối nghi ngờ có phối hợp với những dị tật và bệnh tật hay không.

Nữ thần Artemis với rất nhiều vú phụ

Vú phụ còn có tên gọi đa nhũ là một dị tật bẩm sinh nhỏ và thường gặp, gồm có núm vú và/hoặc mô có liên quan, hay có ở trên ngực dọc theo đường vú phôi thai. Vú phụ lạc chỗ khi gặp ở ngoài đường vú phôi thai – gọi như thế vì có tiềm năng phát triển thành mô vú ở nhiều động vật. Ở người đường vú phôi thai đi từ một điểm ngoài hố nách trên cánh tay đi xuống ngực, bụng, bẹn và thường kết thúc ở mặt trong đùi mặc dù nhiều trường hợp có cả trên bàn chân. Vú phụ có thể có đầy đủ mô vú và các ống dẫn sữa, tiết sữa (trường hợp này gọi là polymastia) hoặc chỉ có một phần mô vú.

Từ năm 1915, Kastia đã có bảng phân loại như sau:

- Vú phụ đầy đủ (núm vú, quầng vú và mô tuyến, gọi là polymastia).

- Núm vú và mô tuyến (không có quầng vú).

- Quầng vú và mô tuyến (không có núm vú).

- Chỉ có mô tuyến lạc chỗ.

- Núm vú, quầng vú và mô vú giả (mô mỡ thay thế mô tuyến).

- Chỉ có quầng vú.

- Chỉ có đám lông.

Vú phụ hay phối hợp với những bệnh gì?

Rất nhiều bệnh thuộc các hệ thống khác nhau (thần kinh trung ương, tiêu hóa, xương, tai, mũi, họng, tim) và một số hội chứng như Turner, thiếu máu Fanconi và nhiều bệnh về máu khác... Có tác giả (Meshes, 1979) cho rằng vú phụ thường hay đi kèm với bất thường ở đường tiết niệu (thận) với tỷ lệ khoảng 23-27% như nhiễm khuẩn, dị tật hay ung thư nhưng chủ yếu do những bệnh gây nghẽn tắc.

Các dạng lâm sàng

Thông thường, vú phụ khó nhận biết hoặc không có triệu chứng gì. Đôi khi chỉ nhận thấy có vú phụ khi cơ thể có những thay đổi về hormon như ở tuổi vị thành niên, khi hành kinh hay khi có thai mới thấy tăng sắc tố, phồng to lên, cương đau hoặc thậm chí tiết sữa. Sau khi đẻ, có thể không nhận thấy có vú phụ vì chỉ là một nốt sắc tố nhỏ hay hơi lõm. 75% vú phụ chỉ bằng 1/3 núm vú bình thường nghĩa là đường kính không lớn hơn 0,2-0,3cm; 25% còn lại to bằng nửa núm vú bình thường; rất hiếm khi to bằng núm vú bình thường. Rất dễ lầm với các tổn thương khác. Hầu hết các trường hợp vú phụ chỉ có 1, khi có 2 hoặc nhiều hơn (có khi tới 8 vú phụ) thì phân bố ở cả 2 bên hoặc chỉ ở 1 bên, có thể đối xứng hay không. Các vú phụ thường thấy dưới núm vú bình thường, chỉ có khoảng 13% ở trên nhưng dọc theo đường vú. Khoảng 5% vú phụ bị lạc chỗ nghĩa là thấy ngoài đường vú như lưng, vai, 2 chi, cổ, âm hộ và cả mặt. Nhiều trường hợp vú phụ có tính di truyền gia đình, từ cha mẹ đến con cái; có trường hợp di truyền 4 thế hệ liên tiếp. Gen trội với biểu hiện không đầy đủ là hình thái di truyền thường được chấp nhận.

Trái độ xử trí với vú phụ

Nếu vú phụ phồng to, gây khó chịu, vướng víu thì có thể cắt bỏ. Cắt bỏ vú phụ có đầy đủ mô vú (polymastia) và lạc chỗ có thể cần cân nhắc và phức tạp hơn. Khi có vú phụ đơn độc và không thường xuyên xảy ra trong gia đình thì không nhất thiết phải kiểm tra toàn diện xem có các dị tật khác không, trừ phi kèm theo một dị tật nhỏ, một vú phụ nổi rõ và lạc chỗ hay đã có vú phụ lưu hành trong gia đình, họ hàng. Trong những trường hợp này, kiểm tra bằng siêu âm và làm các thăm dò về thận được chỉ định vì bệnh lý thận và đường tiết niệu có thể diễn biến thầm lặng.

Báo cáo y học đầu tiên về vú phụ đã có từ 1878 với tần suất do Leichtenstern đưa ra là 1 cho 500 (0,2%). Tần suất vú phụ khác nhau theo từng khảo sát, ở dân số Hungary là 0,22% (Meshes, 1979); ở trẻ sơ sinh Mỹ da đen là 1,63% (Rahbar, 1982); sơ sinh Israel là 2,5% (Mimouni, 1983); Đức là 5,6% (Schmid, 1998)... Những sự khác biệt về tần suất có thể do nhiều yếu tố: vùng địa lý, nhóm chủng tộc, phương pháp nghiên cứu, kể cả phương pháp khám phát hiện. Tỷ lệ vú phụ ở nam và nữ khác nhau theo nhiều nghiên cứu nhưng hầu hết nhận thấy ở nam nhiều hơn nữ, với tỷ lệ 1,7/1.

BS. Đào Xuân Dũng

0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]