Kỳ 2: Chống chọi giữa đại dương

Quần đảo Trường Sa còn được gọi là “quần đảo bão tố”. Hàng năm có khoảng 15 - 20 cơn lốc, bão đi qua hoặc hình thành tại vùng biển này.

0
  •  

Một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa được gọi với cái tên khắc nghiệt “lò vôi thế kỷ”. Trong sự khắc nghiệt của thiên nhiên đó, những người lính công binh xây đảo đã ăn, ngủ, ngụp lặn trong nắng gió và sóng bão Trường Sa để hoàn thành nhiệm vụ.

Cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 83 xây dựng đảo Đá Lớn những ngày đầu (Ảnh tư liệu)

Đá càng nặng, tình yêu Tổ quốc càng sâu

Đại tá Hoàng Duy Lập, nguyên Chỉ huy trưởng Trung đoàn Công binh Hải quân 83 bồi hồi nhớ lại những ngày đầu tiên ông và đồng đội chống chọi với nắng gió tại đảo Đá Lớn. Ông Lập tâm sự “Người lính công binh không được phép kêu khó khăn gian khổ. Những ngày sống chết ở đảo Đá Lớn đã tôi luyện chúng tôi thành những chiến sĩ kiên cường. Mỗi người lính đều như có trong tim mình chất thép vô cùng vững chắc, nếu không thì đã bị nắng Trường Sa thiêu rụi rồi”.

Câu chuyện xây dựng trên các đảo ở Trường Sa được ông Lập ví với truyền thuyết xây Loa thành của An Dương Vương thủa trước. Giọng ông đầy kiêu hãnh: “Truyền thuyết kể rằng, vua An Dương Vương muốn xây thành Cổ Loa đánh giặc, nhưng bao năm ròng rã, cứ xây đến đâu, thành lại đổ đến đó. Mãi đến khi thần Kim Quy trợ giúp, thành mới xây xong. Vậy mà ngày nay, giữa Trường Sa đầy bão tố, chẳng cần một sức mạnh thần linh nào cả, chỉ có bàn tay khối óc, nghị lực phi thường và tình yêu biển đảo, những người lính công binh hải quân đã xây nên những Loa thành vững vàng, kiên trung nơi đầu sóng ngọn gió”.

Những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ trước, khi ấy các đảo lớn, nhỏ thuộc quần đảo Trường Sa vẫn còn hoang sơ, chủ yếu là đảo chìm. Khi thủy triều xuống, đảo nhô lên khỏi mặt nước, thủy triều lên đảo chìm sâu dưới biển. Thời tiết vô cùng khắc nghiệt, ban ngày nắng cháy da, đêm phải đắp chăn chống lại sương biển và hơi muối mặn. Để đẩy nhanh tiến độ xây đảo, các chiến sĩ phải chạy đua với thời gian, bất chấp thời tiết nắng, mưa, hễ thủy triều xuống là đi vác đá từ tàu vào đảo.

Chiến sĩ công binh hải quân Đoàn M31 vác xi măng từ xuồng vào đảo Đá Lớn (Ảnh tư liệu).

Do ngâm trong nước biển mặn lâu ngày, chân, tay của các chiến sĩ đều bị bong tróc, tóc ai cũng cứng và đỏ quạch như rễ tre, da đen nhẻm. Dưới cái nắng 40 độ C và gió rát mặt, họ chỉ nhận ra nhau bằng hàm răng trắng và ánh mắt sáng. Ngày ấy vác đá không có tấm bảo hộ kê vai như bây giờ nên chỉ sau 3 ngày là vai áo chiến sĩ rách bươm. Anh em nghĩ ra cách gấp đôi chiếc bao tải, đặt lên vai làm lót vác đá cho đỡ đau. Thức ăn của chiến sĩ ngày ấy chủ yếu là đồ hộp và rau muống phơi khô đem ra từ đất liền. Do không có thực phẩm tươi, nhiều chiến sĩ bị đau bụng, kiết lỵ.

Nhiều đêm giông bão ầm ầm, anh em ngồi bên nhau kể chuyện quê nhà, cây đàn ghi ta bập bùng, lời bài hát “Đời mình là một khúc quân hành” vang lên trong màn đêm lẫn vào sóng nước. Sau những phút giây vui tươi ấy là khoảng lặng. Trong sâu thẳm trái tim, các chiến sĩ đều nhớ đất liền, thương mẹ già ở quê, nhớ người bạn gái bịn rịn chia tay trước lúc lên đường. Vượt lên những khó khăn của thời tiết, nỗi nhớ đất liền, các chiến sĩ vẫn vững niềm tin, quyết tâm xây đảo.

Nói về chuyện vác đá rách vai, giọng ông Lập chùng xuống, xúc động: “Vết xước của đá trên vai càng nhiều, mình càng thấy yêu Tổ quốc. Đá càng nặng, tình yêu Tổ quốc càng sâu, thương đồng đội càng nhiều. Vác đá trên vai là vác trọng trách của Đảng và nhân dân giao phó”.

Một buổi chiều tháng 7/1988, sau gần 6 ngày vật lộn với nắng gió, một “Loa thành” nữa gần hoàn thành. Bỗng nhiên trời nổi cơn dông, sấm chớp ầm ầm, mưa như trút nước. Nhìn bức tường vừa xây xong chưa kịp ráo vữa bị mưa biển xói mòn, anh em ôm nhau khóc. Mặc dù huy động tất cả áo mưa che chắn, song cơn dông quái ác ấy đã làm cho “Loa thành” sạt lở phân nửa. Mưa tạnh, các chiến sĩ lại khẩn trương bắc giàn giáo, trộn hồ xếp từng viên đá vào lòng biển.

“Bão tặc, giông khùng” không làm sờn ý chí

Ông Hoàng Kiền, nguyên Thiếu tướng, Tư lệnh Binh chủng Công binh. Trước khi làm Tư lệnh, ông Kiền từng là Chỉ huy trưởng Trung đoàn công binh 83. Với một vị tướng có bề dầy biển đảo, ông chẳng lạ lẫm gì việc xây dựng đảo Trường Sa, nhưng khi nói về những ngày ông cùng đồng đội sống chết ở đảo Đá Lớn, người lính già vẫn rưng rưng xúc động. “Đó là những ngày đầy tự hào và đẹp đẽ nhất trong đời người lính”.

Ông Kiền vẫn nhớ như in cái đêm 4/4/1990, khi ông và mọi người vừa chợp mắt sau một ngày vật lộn với nắng gió, bỗng dưng sấm chớp vang trời, dông gió ầm ầm nổi lên. Quá bất ngờ với cơn “dông khùng” nửa đêm, nhưng ông Kiền vẫn bình tĩnh chỉ huy các chiến sĩ chống chọi với những con sóng lừng đang vỗ ầm ầm vào ngôi nhà mới xây chưa có cửa.

Tư lệnh Giáp Văn Cương thăm các chiến sĩ công binh xây đảo Tiên Nữ năm 1988 (Ảnh tư liệu).

Để không bị sóng lôi ra biển, anh em đã chống sóng bằng cách bám vào vai nhau thành một vòng tròn, làm như vậy vừa giữ vững ý chí chiến đấu, vừa bảo đảm an toàn, sóng lùa vào cũng không thể hất được “gọng kìm” tay của các chiến sĩ. Những con sóng cao như mái nhà dâng lên rồi lại “ném vật” các chiến sĩ xuống nền nhà mới xây, có chiến sĩ đã hét lên thật to lấy thêm can đảm. Giữa sống chết cận kề, anh em dặn dò nhau ai sống thì về quê xin gửi lời nhắn dùm vợ con, thăm hỏi mẹ già và người thân ở đất liền. Nếu phải hy sinh để giữ nhà thì cũng sẵn sàng. Vì xác định như thế, nên tất cả mọi người đoàn kết vai kề vai, chân bám chặt vào nền nhà và quyết tâm chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.

Sau cơn bão, ông Kiền và những chiến sĩ công binh lại bắt tay xây những công trình mới. Những chiếc áo yếm hải quân bạc màu không chỉ vì dãi nắng, dầm mưa theo thời gian, mà còn rách sờn vì vết tỳ của đá. Ông Hoàng Kiền đưa cho chúng tôi xem chiếc áo yếm hải quân sờn cũ, vai rách bươm với ánh mắt tự hào “Trên vai chiếc áo này đã cõng hàng nghìn hòn đá. Ngày ấy vác đá trên vai xây dựng đảo, đồng nghĩa với vác tình yêu Tổ quốc lên vai mình”, ông Kiền nói./.

0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]