Đôt quỵ biến
thiên theo thời gian. Buổi sáng nguy cơ đột quỵ cao hơn trong ngày. Sự thay đổi của huyết áp tương
đồng theo thời gian đột quỵ cùng với tình trạng tăng độ quánh máu vào buổi sáng nên dễ dẫn
đến đột quỵ. Đột quỵ xảy ra theo mùa, nhiều vào cuối năm đặc biệt là mùa đông.
Đột quỵ thường
xảy ra do bệnh tăng huyết áp (chiếm tỷ lệ 80%), xơ vữa động mạch (XVĐM) 18-25%, các bệnh khác (5%).
Giữ huyết áp ở mức bình thường (dưới 140/90mmHg). Chế độ ăn giảm các chất mỡ bão hòa, nên ăn các
loại thịt trắng, hạn chế thịt có màu đỏ, cai thuốc lá.
Dự phòng
các đột quỵ
Cách tốt nhất để
dự phòng các đột quỵ là chống các yếu tố nguy cơ (YTNC) sau:
Chống tăng
huyết áp (THA)
Điều trị THA là
giảm biến chứng tim mạch, thận và giảm tỷ lệ tử vong. Áp dụng các biện pháp giảm trọng lượng cơ thể
(chống béo phì), ăn nhạt, tập thể dục, dùng thuốc hạ HA đều đặn khi bị THA. Khi đột quỵ đã
xảy ra, nguyên tắc chung điều trị HA là không hạ nhanh, trừ phi THA ác tính (HA tâm thu >200mmHg
và hoặc HA tâm trương > 110mmHg).
Cai thuốc lá
triệt để
Hút thuốc lá là
nguy cơ XVĐM, nguy cơ bệnh mạch vành tăng gấp đôi, nhất là những người hút trên 40 điếu mỗi ngày.
Nguy cơ đột quỵ cũng dứt hẳn sau một vài năm ngừng hút thuốc lá.
Chống tăng
cholesterol máu
Cơ chế sinh bệnh
XVĐM chưa được hiểu biết hoàn toàn, nhưng tổn thương và hậu quả rối loạn chức năng của các tế bào
nội mạc mạch máu là rất sớm. Sự giảm cholesterol bằng các thuốc nhóm statin. Có nhiều nghiên cứu
lớn đã chỉ ra rằng tăng cholesterol là một YTNC độc lập của đột quỵ.
Chế độ ăn
muối và kali hợp lý
Ăn mặn làm THA.
Đối với các nước nhiệt đới, chỉ nên giảm muối vừa phải do mất muối qua mồ hôi. Chế độ ăn ít kali
làm tăng nguy cơ đột quỵ do THA. Nên bổ sung kali bằng ăn thêm hoa quả và rau tươi. Mức độ ăn kiêng
được khuyến cáo chung là không quá 2,4g natri mỗi ngày (tương đương 6g muối ăn natriclorua). Những
bệnh nhân THA nếu giảm bớt lượng muối ăn khoảng 40mg/ngày sẽ giảm được nguy cơ THA hoặc biến chứng
tim mạch.
Cai
rượu
Người ta thấy
việc sử dụng rượu mức trung bình có thể cải thiện sức khỏe một cách thật sự. Tuy nhiên một số người
nghiện rượu gặp phải những biến chứng nặng là do lạm dụng rượu.
Nghiện rượu nặng
(sử dụng nhiều hơn 60g/ngày) tăng nguy cơ đột quỵ. Sử dụng mức độ trung bình (12-24g/ngày) giảm
nguy cơ đột quỵ. Sử dụng rượu ít hơn 12g/ngày thì nguy cơ thấp nhất. "10g rượu tương đương với
330ml bia hoặc 100ml rượu vang hoặc 30ml rượu mạnh".
Tập thể
dục
Tập thể dục làm
giảm thấp các YTNC của bệnh tim mạch. Những người đàn ông thường xuyên hoạt động đủ mạnh để ướt đẫm
mồ hôi là đã giảm 20% nguy cơ đột quỵ. Tập thể dục mức độ trung bình, chẳng hạn như đi bộ nhanh,
đạp xe đạp hoặc bơi lội ít nhất 30 phút/lần/ngày, 5 ngày/tuần là hữu ích.
Tập thể dục đều
đặn có thể góp phần cải thiện đường máu, giảm tỷ lệ kháng insulin, giảm cân, cải thiện một số
thông số lipid, hạn chế tiến triển tổn thương XVĐM và cải thiện HA. Tập thể dục có tác dụng làm
giảm HA tâm thu, giảm béo phì. Thể dục làm giảm tỷ lệ nhồi máu cơ tim do đó cũng làm giảm tỷ lệ đột
quỵ.
Chống béo
phì
Ở bệnh nhân béo
bụng là nguy cơ lớn nhất của đột quỵ. Về YTNC của đột quỵ, nghiên cứu sức khỏe dinh dưỡng đã xác
định rằng gia tăng chỉ số khối cơ thể = [trọng lượng (kg] chia cho [chiều cao (m)]2, nếu >
27kg/m2 và tăng cân nặng sau 18 tuổi làm tăng YTNC của nhồi máu não.
Chọn thuốc
tránh thai có estrogen
Dùng thuốc tránh
thai bằng đường uống với lượng estrogen lớn hơn 50mg tăng nguy cơ đột quỵ, với liều thấp dưới 50mg
cho thấy không gia tăng nguy cơ đột quỵ.
Chống bệnh
đái tháo đường (ĐTĐ)
ĐTĐ và rối loạn
dung nạp glucoza là YTNC của đột quỵ.
Nghiên cứu ở
Framinham đã xác định rằng nguy cơ đột quỵ cao hơn trong những bệnh nhân ĐTĐ so với những bệnh nhân
không ĐTĐ. Khi một bệnh nhân ĐTĐ bị đột quỵ thì hậu quả hiểm nghèo hơn nhiều so với bệnh nhân không
bị ĐTĐ. Lý do của hậu quả này là do bệnh nhân bị ĐTĐ có vòng tuần hoàn nghèo nàn.
Phát hiện và
điều trị sớm bệnh tim
Các bệnh tim là
YTNC đứng hàng thứ hai của đột quỵ sau XVĐM bao gồm: Rối loạn nhịp (đặc biệt là rung nhĩ), tổn
thương van tim, các tổn thương cơ tim đặc biệt nhồi máu mới, nhồi máu cũ và bệnh cơ tim.
Các bệnh
viêm mạch
Phối hợp với các
hiện tượng tự miễn cần phải tìm nhất là các bệnh gây ra các bất thường miễn dịch như bệnh xoắn
khuẩn (Leptospirose), bệnh Lyme, bệnh do Aspergillose, viêm màng não - mạch máu não do giang mai,
hoặc do nhiễm Chlamydia pneumoniae, Helicobacter pylori.
Homocysteine
(Hcy)
Tăng Hcy máu là
YTNC của XVĐM vành, não, và mạch máu ngoại vi. Các thiếu hụt dinh dưỡng về folat, vitamin B12 và
vitamin B6 có thể đẩy mạnh tăng Hcy máu. Cung cấp folat 1 - 2mg/ngày là đủ để làm giảm Hcy
máu.
Tăng Hcy máu
toàn phần tương quan với nguy cơ nhồi máu cơ tim và nhồi máu não, đặc biệt những bệnh nhân ở tuổi
trung niên.
Tóm
lại: Phòng bệnh đột quỵ giữ vai trò quan trọng trong việc hạ thấp tỷ lệ tử vong và tình
trạng di chứng. Cần phát hiện sớm, có biện pháp xử trí kịp thời các ca đột quy. Mặt khác phải chú ý
đề phòng khả năng tái phát của những trường hợp đã mắc.
AloBacsi.vn
Theo Sức khỏe & Đời sống