Nấm móng và cách dùng thuốc

Nấm móng chủ yếu do vi nấm Trichophyton (rubum hoặc menta - rophyles) gây ra. Ngoài ra cũng có thể do một số vi nấm khác như Candida,

15.6112

Nấm móng chủ yếu do vi nấm Trichophyton (rubum hoặc menta - rophyles) gây ra. Ngoài ra cũng có thể do một số vi nấm khác như Candida, nấm hoại thư sinh hơi (aremonium sp, scopulariopsi, critalidium sp, apergielus sp, fusarium) nhưng ít hơn.

 Nấm móng.
Một số điểm về nấm móng

Vi nấm có thể xâm lấn móng bằng cách thâm nhập từ dưới móng, từ  bờ xa hay ở bờ  gần (sát ngay da móng) làm cho móng không còn vẻ bóng, giòn ra, dày lên và màu bẩn, phần dưới móng có bột vụn, trên móng có rãnh, lỗ chỗ. Lâu dần móng bị vẹm, phần còn lại xù xì, vàng đục. Cũng có khi vi nấm xâm nhập thẳng vào phiến móng từ phía trên làm thành các mảng móng mất màu dạng bột trắng (hay gặp ở trẻ em) gọi là nấm móng trắng nông. Đa số phát hiện các trường hợp nấm móng hiện nay là dựa vào lâm sàng và soi kính hiển vi để dùng  thuốc.

Soi nấm dưới kinh hiển vi tiên đoán được chính xác 94%, lại rẻ tiền. Phức tạp hơn là phải nuôi cấy nấm (tỷ lệ dương tính giả khá cao, chỉ chính xác được khoảng 30-40%), có trường hợp biết một nấm bị nhiễm mà không liên quan đến bệnh.

Trong trường hợp vi nấm không gây các tổn thương đáng kể, không có triệu chứng lâm sàng kèm theo thì thường không dùng thuốc; song nên điều trị nấm chân đi kèm để làm giảm viêm mô dưới da.

Những người trong gia đình cũng thường bị nấm móng.  Chưa rõ đó là lây truyền do tiếp xúc hay những người đó có tính cảm thụ giống nhau bị nhiễm nấm trực tiếp từ cùng môi trường sống. Để chắc chắn, cần tránh các điều kiện gây lây nhiễm (không dùng chung dụng cụ bấm móng, giày, tất...). Cần rửa sạch móng, lau khô móng, dùng kem làm mềm móng... là những cách hỗ trợ cần thiết.

Thuốc thường dùng:

Thuốc toàn thân:

Terbinafin và intraconazol:

- Đánh giá so sánh hai thuốc: Về tỷ lệ khỏi lâm sàng khỏi 87,5% sang thương móng. Nếu dùng terbinafin thì tỷ lệ người bệnh khỏi lâm sàng sau 12 tuần dùng là 54% và sau 16 tuần dùng là 54%. Đối với intraconazol (vì có độc) nên không dùng liên tục mà dùng 7 ngày trong tháng,  dùng  trong 3 tháng (12 tuần) đến 4 tháng (16 tuần), thì tỷ lệ khỏi lâm sàng thấp hơn chỉ 32%. Về tỷ lệ khỏi hoàn toàn (xét nghiệm không còn thấy nấm gây, móng lành hoàn toàn): nếu dùng terbinafin thì tỷ lệ khỏi  sau 12 tuần và 16 tuần điều trị là  46% và 55%, còn dùng intraconazol tỷ lệ này thấp hơn tương ứng 23% và 26%. Như vậy, dùng terbinafin cho hiệu quả cao hơn intraconazol.

- Về độ độc: Có tới 3,4% người bệnh dùng terbinafin phải ngừng thuốc vì tác dụng phụ của thuốc.  Phần lớn gây rối loạn tiêu hóa, đau đầu, đỏ da nhẹ, còn tác dụng phụ nghiêm trọng chỉ khoảng 1% nhưng nếu xảy ra thì  lại rất nặng bao gồm: giảm  bạch cầu trung tính, mất bạch cầu hạt. Sự giảm sút bạch cầu này dẫn tới nhiễm khuẩn (gây viêm họng, lở loét, sốt); nhiễm độc gan nặng;  có trường hợp mất bạch cầu hạt và  nhiễm độc gan nặng dẫn tới tử vong. Do vậy, không dùng  terbinafin cho người có tiền sử giảm bạch cầu, đặc biệt không dùng cho người có bệnh gan mạn; cần làm xét nghiệm máu,  chức năng gan trước và định kỳ trong điều trị.

Đối với intraconazol người bệnh phải ngưng dùng thuốc vì  những tác dụng không mong muốn khoảng 2,6% (nếu dùng thuốc cách quãng) và  4,2% (nếu dùng liên tục). Tác dụng phụ  của intraconazol cũng như terbinafin nhưng còn thêm là gây suy tim sung huyết, vì vậy còn có thêm chống chỉ định cho người suy tim sung huyết.

Thời gian dùng thuốc:

- Terbinafin: dùng thuốc trong 6 tuần đối với nấm móng tay, từ 12-16 tuần đối với nấm móng chân. Tuy nhiên nếu dùng thuốc trong 16 tuần cho hiệu quả cao và bệnh ít tái phát hơn dùng  thuốc trong 12 tuần.

- Intraconazol có hai cách dùng: Dùng cách quãng  (dùng 1 tuần rồi nghỉ dùng trong 3 tuần, nghĩa là trong một tháng chỉ dùng 1 tuần. Dùng như thế 2 tháng với nấm móng tay hoặc 3 tháng với nấm móng chân) và dùng liên tục trong 12 tuần với nấm móng chân. Cách dùng cách quãng ít độc hơn.

Griseofulvin là loại thuốc kháng nấm phổ hẹp. Với nấm móng  tay  dùng thuốc từ  4-8 tháng, với nấm móng chân dùng 6-12 tháng. Thuốc có thể gây đen miệng, khó chịu ở dạ dày, ruột, nhức đầu buồn ngủ, lú lẫn, viêm thần kinh ngoại biên, nhạy cảm với ánh nắng (gây sạm da), đặc biệt  có thể giảm bạch cầu, mất bạch cầu hạt, suy giảm chức năng gan. Cần kiểm tra hệ tạo máu chức năng gan trước và định kỳ trước, trong khi dùng thuốc. Không được dùng griseofulvin cho người mang thai, suy gan, rối loạn chuyển hóa porphyrin. Thận trọng với người cho con bú. Khi dùng thuốc không được hút thuốc lá, uống rượu, dùng thuốc tránh thai, thuốc  ngủ (vì grisefpulvin có các tương tác bất lợi với các chất này).

Thuốc dùng ngoài: Một số thuốc sau đây vốn là hóa chất sơn móng chân như amorolfine, ciclopirox, olamin, tioconazol được thử  dùng để làm thuốc bôi trị nấm móng chân. Kết quả thu  được rất hạn chế khoảng 20% - 54%, có trường hợp chỉ đạt 7%. Vì những thử nghiệm này không có đối chứng nên khó đánh giá vì thế FDA cũng chưa chấp nhận cho dùng.

Các thuốc dùng ngoài thường dùng gồm: mỡ griseofulvin 5%, cream terbinafin (laminazil), ketoconazol (nizoral) hay các loại azol khác. Chỉ dùng cho những trường hợp nấm trắng nông hay những trường hợp nấm móng nhẹ. Cách dùng: Dũa cho hết phần móng bị bệnh và dũa qua phần lành và bôi thuốc lên. Với nấm móng chân cũng như móng tay phải dùng tối thiểu là 6 tháng, thậm chí có khi tới 12 tháng.

Chữa nấm cần phải kiên trì.  Bệnh nhẹ có thể dùng thuốc bôi (kết quả không chắc chắn). Nếu bệnh ở mức độ vừa và nặng phải dùng thuốc uống (có thể kết hợp thêm thuốc bôi). Trong 3 loại thuốc uống thì terbinafin là loại có tác dụng mạnh nhất. Khi không dùng được terbinafin thì thay bằng intracona zol. Griseofulvin  kết quả không cao bằng và phải dùng kéo dài  so với hai loại trên, song là loại  cổ điển, rẻ tiền hơn.

DS. Bùi Văn Uy

0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]