Suy tim là tình trạng cơ tim không đảm bảo được nhu cầu về cung cấp lượng tuần hoàn. Do tình
trạng của từng bệnh mà tim có thể suy một bên trước rồi dẫn đến suy tim toàn bộ hoặc suy tim toàn
bộ ngay từ đầu.
Dấu hiệu nhận biết bệnh
Suy tim có thể mạn tính, hoặc xuất hiện đột ngột thì gọi là suy tim cấp.
Đối với suy tim mạn tính, có thể khó thở xảy ra khi gắng sức hoặc nằm. Biểu hiện thường thấy là:
Người bệnh mệt mỏi, phù chân, hồi hộp tim đập nhanh; giảm khả năng gắng sức; tăng cân do giữ
nước.
Việc điều trị nguyên nhân cũng góp phần khá tích cực làm giảm
suy tim nhanh. (Ảnh minh họa: KT)
Đối với suy tim cấp, triệu chứng tương tự như suy tim mạn tính, tuy
nhiên diễn biến đột ngột và tiến triển nặng nhanh; đột ngột khó thở, thở nhanh; hồi hộp, nhịp tim
nhanh; đau ngực nếu suy tim cấp do nhồi máu cơ tim.
Nguyên nhân dẫn đến suy tim
Theo GS.TS Phạm Gia Khải - Chủ tịch Hội Tim mạch Việt Nam, chuyên gia đầu ngành về tim mạch cho
biết: "Suy tim là căn bệnh chính ở người già. Vì khi con người già đi, các cơ quan chức năng chuyển
hóa không hoạt động, không tổng hợp được tốt dẫn đến dị hóa nhiều nên khó tránh khỏi các bệnh lão
hóa của tuần hoàn".
Đặc biệt, khi già các tế bào não chết dần đi và không được phục hồi, thêm đó
sức khỏe và cơ bắp lại kém, dẫn đến động mạch, tĩnh mạch và tim bị lão hóa. Trong đó, một trong các
lão hóa hay gặp ở người già là động mạch vành, động mạch nuôi dưỡng cơ tim bị hẹp lại, dẫn đến cơ
tim không co bóp được tốt, làm cho bệnh nhân gắng sức, khó thở, tức ngực khi vận động mạnh.
Những nguyên nhân dẫn đến suy tim chủ yếu là do: Huyết áp cao không điều trị; Bệnh cơ tim thiếu
máu; Nhồi máu cơ tim; Bệnh van tim (hẹp, hở van 2 lá, hẹp hở van động mạch chủ); Bệnh tim bẩm sinh
không điều chỉnh bằng phẫu thuật (hẹp van động mạch phổi, còn ống động mạch…); Viêm cơ tim; Cường
giáp không điều trị; Suy thận mạn tính; Loạn nhịp tim kéo dài…
Ngoài những bệnh của quả tim kể trên, một số bệnh của mạch máu chủ yếu là của động mạch, cũng có
thể là nguyên nhân dẫn đến suy tim. Đặc biệt, cao huyết áp không điều trị, một số bệnh của mạch máu
có thể là những nguyên nhân dẫn đến suy tim.
Cuối cùng, một số bệnh toàn thân cũng là nguyên nhân dẫn đến suy tim, điển hình là suy tim do
tuyến giáp hoạt động thái quá (nhiễm độc giáp) hoặc kém quá (suy giáp), suy tim do thiếu máu.
Một số nhiễm độc hoặc suy dinh dưỡng, rối loạn điện giải, xơ vữa mạch, bệnh huyết khối, rối loạn mỡ
máu, rối loạn nhịp tim đôi khi là nguyên nhân dẫn đến suy tim.
Còn lại, khoản 40% không thể tìm được một nguyên nhân cụ thể cho việc gây suy tim.
Chẩn đoán và điều trị bệnh
Cũng theo GS Phạm Gia Khải: "Thông thường, bệnh nhân suy tim tìm đến thầy thuốc khi họ bị gắng
sức, khó thở. Đây là dấu hiệu đầu tiên của bệnh. Nhưng để chắc chắn, bệnh nhân cần được thăm khám
cụ thể. Trước hết là khám lâm sàng, sau đó sẽ triển khai làm các nghiệm hóa, sinh máu. Tiếp đến là
tiến hành điện tâm đồ, siêu âm tim. Trải qua tất cả các bước này mới có thể kết luận chuẩn xác là
người bệnh có suy tim hay không?".
Sau khi có kết luận, nếu bệnh nhân bị suy tim cũng có thể biết ngay được bệnh nhân bị suy tim ở
mức độ nào. Trường hợp suy tim cấp độ 1 (tức là bệnh nhân gắng sức nhưng không sao); Suy tim cấp độ
2 (bệnh nhân gắng sức thì bị khó thở). Chẳng hạn như người bệnh đi bộ khoảng 2 đến 3 dãy nhà,
mỗi dãy nhà khoảng 50m, đi nhanh, bệnh nhân thấy tức ngực khó thở. Hoặc khi làm việc gắng sức, quá
sức cảm thấy khó thở.
Suy tim cấp độ 3 là khi bệnh nhân làm việc nhẹ nhưng đã cảm thấy khó thở. Đơn giản như người
bệnh chỉ cần bê 1 chậu nước, nhưng đã gây cảm giác khó thở. Còn suy tim cấp độ 4 là khi người bệnh
chỉ ngồi, không làm việc gì khác nhưng vẫn cứ thở hồng hộc.
Thông thường nếu phát hiện suy tim ở cấp độ 1, việc tiến hành phòng tránh bệnh sẽ rất tốt. Còn
trường hợp đã suy tim ở độ 2 là cần phải chú ý để điều trị bệnh. Trong điều trị suy tim, cần điều
trị triệu chứng chung và điều trị nguyên nhân. Trong những trường hợp tiếp nhận cấp cứu, cần phải
xử lý nhanh các triệu trứng suy tim trước bằng các thuốc trợ tim, lợi tiểu…
Việc điều trị nguyên nhân cũng góp phần khá tích cực làm giảm suy tim nhanh. Các nguyên nhân chủ
yếu điều trị được là rối loạn chức năng thất trái do thiếu máu cục bộ, nhiễm độc giáp, suy giáp,
các tổn thương van tim, các rối loạn nhịp, viêm cơ tim cấp, phì đại thất trái do tăng huyết áp…
Ngoài ra, chế độ ăn uống, sinh hoạt và tập luyện thể dục cũng góp phần quan trọng trong điều trị
bệnh. Bệnh nhân cần hạn chế ăn mặn và uống ít nước tránh việc phù và giữ nước.
Người mắc bệnh suy tim cũng không nên ăn nhiều trong một bữa, mà cần chia nhỏ bữa ăn sẽ tốt hơn.
Những người suy tim nặng hạn chế hoạt động thể lực, nghỉ ngơi tại giường nếu cần thiết. Sau đó hoạt
động trở lại từ từ có sự theo dõi sát của bác sĩ.
Hiện nay, trên thế giới còn điều trị bằng phương pháp ghép tim cho bệnh nhân suy tim nặng. Tuy
nhiên, việc ghép tim chỉ được thực hiện ở một số trung tâm lớn trên toàn thế giới, tỷ lệ thành công
cũng cao. Tuy nhiên do giá thành lớn, mà người hiến tim cũng khá hạn chế nên số lượng người bệnh
được phẫu thuật ghép tim là khá hiếm.
GS.TS Phạm Gia Khải khuyên, để có cuộc sống cân bằng và phòng tránh tốt bệnh tật thì mỗi chúng
ta nên sống một cách khoa học. Mỗi người cần phải biết phòng bệnh hợp lý, giải trí hợp lý, biết thể
dục và làm việc hợp lý, hòa mình vào thiên nhiên thì cuộc sống mới ý nghĩa và chất lượng hơn.
Những điều cần chú ý đối với bệnh suy tim
- Không hút thuốc lá, thuốc lào
- Kiểm tra cân nặng hàng ngày
- Chế độ ăn giảm muối
- Hạn chế mỡ và cholesterol
- Hạn chế rượu và dịch: Người bệnh không nên uống rượu nếu bị suy tim. Rượu có thể tương tác với
thuốc điều trị suy tim, giảm khả năng co bóp của cơ tim, gây rối loạn nhịp tim.
- Hoạt động ở mức độ trung bình giữ cân nặng lý tưởng, giảm nhu cầu của cơ tim. Trước khi tập
luyện nên hỏi ý kiến bác sĩ về chế độ tập luyện và các chương trình phục hồi chức năng tim
mạch.
Theo Thu Thủy - Lê Giang - VOV