Đôi khi gặp các tác dụng phụ, bị hoặc làm
nặng thêm tai biến.
Phát hiện muộn hay quá muộn bệnh
CHA không có triệu chứng đặc hiệu, không có dấu hiệu tiền báo nên phát hiện muộn, có khi rất
muộn, thậm chí lúc xảy ra tai biến tử vong mới xác định bệnh. Người lao động mỗi năm 1 lần, người
tham gia Bảo hiểm y tế mỗi năm trung bình 1 - 2 lần khám sức khỏe theo chế độ, dễ có cơ hội phát
hiện bệnh.
Ngoài đối tượng này ra, những người có nguy cơ cao (trên 40 tuổi, béo phì, rối loạn mỡ
máu, đái tháo đường) ít nhất 6 tháng một lần phải đo huyết áp (HA). Khi đo, nếu thấy HA cao, nên đo
lại 3 đợt, cách nhau mỗi tháng: trước khi đo 30 phút, không ăn uống, không dùng thuốc, các chất
kích thích, nghỉ ngơi hoàn toàn, nơi đo phải rộng rãi, thoáng mát, không lạnh quá nóng quá, không
ồn ào, đo bằng huyết áp kế chính xác (đã kiểm định), nhân viên y tế vui vẻ hòa nhã, tạo cho người
bệnh tâm lý thoải mái tránh hội chứng "huyết áp áo choàng trắng"; mỗi đợt đo 3 lần lấy trị số trung
bình. Chỉ sau 3 đợt đo mà trị số trung bình của HA đều ³ 140/ 90 mmHg mới xác định là bị CHA.
Điều trị muộn do theo quan niệm cũ
Trước đây, WHO (1998) và hội nghị HA thế giới lần thứ 22 (2003) quy định: nếu huyết áp ≥
140/90mmHg mà sau 1 năm thay đối lối sống không có hiệu quả hoặc có kèm nguy cơ (như đái tháo
đường), mới dùng thuốc. Theo đó, nếu không có hai điều kiện trên, dùng thuốc khi HA khoảng 159/
99mmHg, tức là khởi đầu dùng thuốc khá muộn, giai đoạn cuối độ I.
Nay, hướng dẫn của Hội Huyết áp
châu Âu (ESH - 2007, ESH - 2009) của Mỹ ( UN-7) quy định: người dưới 80 tuổi CHA nếu không kèm theo
nguy cơ, khởi đầu điều trị khi HA ≥ 140/90mmHg; còn nếu có yếu tố nguy cơ thì khởi đầu điều trị khi
HA ≥ 130/85mmHg mà không chờ kết quả việc thay đổi lối sống. Như vậy, việc khởi đầu dùng thuốc sớm
hơn trước khá nhiều. Dùng thuốc sớm làm chậm sự tiến triển đến nặng, đưa HA về đích điều trị sớm,
tránh nguy cơ do tăng HA.
Không dùng đủ thuốc, đủ liều phối hợp theo chỉ định
Trước đây, theo cách "điều trị bậc thang" (WHO- 1978- 1988; Mỹ -1992), bệnh càng nặng càng dùng
nhiều thuốc: CHA độ I dùng 1 thuốc; độ II dùng 2 thuốc; độ III - độ IV dùng 3 - 4 thuốc. Nay, hội
nghị HA thế giới (2003), ESH (2009) khuyến nghị: cần phối hợp thuốc ngay từ đầu. Nếu khởi đầu điều
trị một thuốc, tỉ lệ bỏ trị cao hơn khởi đầu phối hợp thuốc.
Liệu pháp phối hợp càng cần ưu tiên áp
dụng cho người nguy cơ cao nhằm hạ thấp HA nhanh, tránh thảm họa. Phối hợp thuốc sẽ bổ sung và làm
tăng hiệu lực của nhau, cho hiệu quả sớm hơn cao hơn dùng đơn; liều dùng mỗi thành phần thấp hơn
khi dùng đơn, nên ít gặp tác dụng phụ thí dụ: phối hợp thuốc ức chế hệ renin -angiotensin -
aldosteron gọi chung là RAAS (bao gồm ức chế men chuyển và chẹn thụ thể angiotensin II) với chẹn
canxi sẽ có lợi: ức chế RAAS làm dịu bớt hiện tượng hoạt hóa thần kinh giao cảm và hệ renin -
angiotensin - aldosteron, giảm phù ngoại vi do chẹn canxi gây ra; ngược lại chẹn canxi làm tăng tác
dụng hạ HA của chẹn RAAS.
Tuy nhiên, một số phối hợp có thể gây ra tác dụng phụ. Không tự ý phối
hợp hay dùng các biệt dược kép. Chỉ phối hợp theo chỉ định của thầy thuốc, cần dùng đủ thuốc đủ
liều các thành phần phối hợp.
Người cao huyết áp cần tuân theo lịch hẹn khám lại theo định kỳ,
không tự ý dùng mãi một đơn thuốc kéo dài
Tự tăng liều theo cảm giác chủ quan
Khi nhức đầu, khó chịu…, người bệnh cho là do HA tăng, rồi tự tăng liều. Thực ra các triệu chứng
trên chưa hẳn do HA tăng. Tự tăng liều có thể gây tụt HA quá mức, thậm chí có thể gây trụy mạch.
Một nghiên cứu tại các phòng khám Pháp cho biết, có những người bị các triệu chứng trên, thậm chí
HA có tăng cao chút đỉnh so với HA mục tiêu, khi đến viện chỉ cho nằm nghỉ ở phòng chờ yên tĩnh thì
có hơn 80% trường hợp HA trở về mức mục tiêu mà không cần dùng thuốc hay nhập viện.
Tự ý ngừng thuốc, không theo đuổi liệu trình
CHA là bệnh mạn, không thể chữa khỏi. Dùng thuốc giữ HA ở mức ổn định ở mức HA mục tiêu có thể
chấp nhận nhận được, gọi là kiểm soát huyết áp. Khi tự ngừng thuốc, HA sẽ tăng cao, gây ra tai
biến. Người CHA phải dùng thuốc hàng ngày, đều đặn, suốt phần đời còn lại.
Dùng thuốc không đúng giờ
HA thường tăng giảm theo chu kỳ sinh học: gần sáng HA tăng dần, khi thức dậy tim hoạt động mạnh
hơn, HA tăng nhanh hơn, từ 9 - 12 giờ trưa ở mức cao nhất, rồi thấp dần vào buổi chiều, thấp nhất
vào lúc 3 giờ sáng, từ 3 giờ sáng lại tăng dần theo chu kỳ. Mỗi loại thuốc có thời gian bán hủy
riêng. Theo đó, phải uống thuốc đều đặn vào một giờ nhất định trong ngày. Nên chọn vào giờ mà huyết
áp có khuynh hướng tăng (7 - 8 giờ sáng). Không "nhớ lúc nào dùng lúc ấy" một cách tùy tiện.
Không khám định kỳ, chỉ dùng mãi một đơn thuốc
CHA tiến triển theo hướng ngày càng nặng, có thể làm xuất hiện hay nặng thêm các bệnh trong hội
chứng rối loạn chuyển hóa, đặc biệt có thể kèm theo các yếu tố nguy cơ tại các cơ quan đích. Cần
phải điều chỉnh thuốc, liều lượng phù hợp với từng giai đoạn. Ví dụ: khi mới bị CHA nhẹ có thể dùng
chẹn beta (atanolol) nhưng khi chuyển sang có nguy cơ suy tim sung huyết thì không thể dùng thuốc
này. Cần tuân theo lịch hẹn khám lại theo định kỳ, không tự ý dùng mãi một đơn thuốc kéo dài.
Tự ý xử lý tai biến
Khi bị tai biến mạch máu máu não (đột quỵ) có người cho do HA tăng cao, gây vỡ mạch, rồi tự dùng
thuốc hạ HA. Đúng ra, cần hạ HA nhưng hạ đến mức nào phải do thầy thuốc. Nếu tự dùng thuốc hạ HA,
có thể dẫn tới hạ HA quá mức, máu không đến được các vùng não khác làm tai biến nặng thêm. Trong
trường hợp này, tốt nhất là khẩn trương đưa người bệnh đến nơi cấp cứu không tự dùng thuốc hạ HA
hay các thuốc khác.
Không phối hợp đúng với chế độ ăn luyện tập
Đôi khi chưa tìm hiểu kỹ nên người bệnh kiêng thái quá (dẫn tới thiếu năng lượng, dinh dưỡng)
luyện tập thái quá (có thể bị tai biến), người CHA nếu không kèm theo bệnh gì thì dùng chế độ ăn
cân đối; nếu kèm theo thừa cân, béo phì, rối loạn mỡ máu, đái tháo đường thì tùy theo bệnh kèm theo
mà dùng một hay một số chế độ ăn tiết chế chất béo, chất đường, chất đạm (hạn chế mức ăn nhưng
không kiêng dẫn tới bị thiếu) để làm cho các bệnh này không nặng thêm ảnh hưởng trở lại đến HA.
Người CHA cần chọn các môn tập luyện nhẹ, dễ, thời gian chỉ 30 - 40 phút, đảm bảo cho tim đập không
quá 105 - 125 lần/phút như các môn đi bộ vừa, chạy bộ chậm, tránh các môn tập nặng (tiêu thụ trên
500kcalo/giờ), khó, tốc độ cao, thời gian kéo dài (như các môn cử tạ, quần vợt, chạy nhanh), khi có
kèm theo nguy cơ tim mạch phải kiêng tập một số môn (theo chỉ định của thầy thuốc).
Không kiêng khem hoặc kiêng khem thái quá
Người CHA dùng nhiều muối (NaCl) viên sủi, thuốc đau dạ dày (chứa NaHCO3,
Na2CO3), mì chính (natri glutamat) thì ion natri vào nội bào tăng kéo theo
ion canxi vào nội bào nhiều, làm tăng co cơ thành mạch gây tăng HA, nhưng người CHA cũng cần có ion
natri để cân bằng nội môi. Do dó, cần ăn tiết chế dùng muối ăn (NaCl). Nhiều người chưa hiểu rõ,
dùng chế độ ăn nhạt, bỏ hoàn toàn muối là không đúng (không có lợi, mất ngon, rất khó ăn).
Khi mắc bệnh khác, chưa chú ý đúng mức đến điều trị cao huyết áp
Phần lớn người CHA thường mắc các bệnh khác như: rối loạn mỡ máu, ĐTĐ, tim mạch nhất là những
người cao HA cao tuổi. Bệnh CHA không có triệu chứng rõ rệt, đôi khi người bệnh chỉ chú ý đến các
bệnh khác nhiều hơn. Trong khi đó, nhiều nghiên cứu chứng minh rõ nếu kiểm soát HA tốt thì sẽ làm
chậm xuất hiện hay làm nặng thêm các bệnh này.
Một thí dụ: phối hợp thuốc HA chẹn thụ thể
angiotensin II (telmisartan) với chẹn canxi (amlodipin) trên người CHA có ĐTĐ týp 2 vi đạm niệu
cao; với liều tối ưu (80mg/ngày và 10mg/ngày) cho hiệu quả hạ HA cao hơn, đồng thời làm giảm
albumin niệu hơn so với trị liệu đơn (Fogari -2007). Đúng ra, không được quên việc kiểm soát HA,
thậm chí cần dùng các biện pháp tốt hơn (như phối hợp thuốc) để kiểm soát bằng được HA.
Khi cao tuổi chưa chú ý đúng mức việc kiểm soát huyết áp
Người cao tuổi (≥ 60), nhất là ở diện già (≥ 75), rất già (≥ 80) thường cho rằng cao tuổi thì
mạch máu xơ cứng nên CHA là lẽ đương nhiên, không điều trị hoặc lúc trẻ có điều trị thì đến tuổi đó
cũng bỏ dở. Dùng thuốc hạ áp, bên cạnh việc làm giảm nhẹ nguy cơ tương đối do CHA gây ra, có sự
quan ngại liên quan đến sự kết hợp ngược về mặt dịch tễ học của tử vong do mọi nguyên nhân với
người già vả rất già và hiệu quả độ an toàn.
Lại có suy đoán cho rằng: sự suy giảm chức năng tim,
suy giảm chức năng thận, hạ HA tư thế đứng, suy giảm nhận thức, các tác dụng phụ, tương tác khi
dùng nhiều loại thuốc… sẽ làm triệt tiêu lợi ích của việc dùng thuốc hạ HA ở đối tượng này. Hơn nữa
không ít thầy thuốc còn cho rằng: với đối tượng này, trong trường hợp động mạch vành, các động mạch
não hẹp vĩnh viễn thì CHA là một "cơ chế bù trừ" quan trọng, không nên can thiệp vào. Những điều
này làm cho chính thầy thuốc cũng quan ngại khi dùng thuốc cho người cao HA cho đối tượng này.
Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu (HYVES, SHEP, ETSH, SHCT) đều kết luận việc dùng thuốc hạ áp ở người
≥ 80 tuổi đều giảm các tỉ lệ tai biến mạch máu não gây tử vong hoặc không tử vong (khoảng 30%),
giảm chết vì tai biến mạch máu não (khoảng 39%), giảm chết do mọi nguyên nhân (khoảng 21%), giảm
chết về tim mạch (khoảng 23%) giảm chết vì suy tim (khoảng 64%) so với nhóm chỉ dùng giả dược.
Một
tổng phân tích 8 nghiên cứu về chế độ trị liệu dùng nhiều thuốc ở người ≥ 60 tuổi có HA tâm thu
160mmHg HA tâm trương < 95mmhg="" cho="" thấy="" liệu="" pháp="" dùng="" thuốc="" hạ="" ha="" trong="" khoảng="" 3,8="" năm…="" làm="" giảm="" tử="" vong="" toàn="" bộ="" 13%,="" giảm="" tử="" vong="" do="" mạch="" vành="" 18%,="" giảm="" tất="" cả="" các="" biến="" chứng="" tim="" mạch="" 26%,="" giảm="" tai="" biến="" mạch="" máu="" não="" 30%,="" giảm="" bệnh="" mạch="" vành="">
Nói tóm lại, tất cả các nghiên cứu đều có kết luận thống nhất: điều trị CHA cho người cao tuổi
(≥ 60), cho người già (trên 75), rất già (≥ 80) là có lợi, làm giảm các nguy cơ giảm tử vong tim
mạch, tăng tuổi thọ; vẫn cần dùng thuốc chữa cao HA không nên tự ý bỏ dùng, tuy nhiên với người rất
già( 80 tuổi) thầy thuốc sẽ có các cân nhắc thích hợp, thận trọng để tránh các rủi ro.
Dùng thuốc sớm làm chậm sự tiến triển đến nặng, đưa HA về đích điều trị sớm, tránh nguy
cơ do tăng HA.
Theo DS. CKII. Bùi Văn Uy - Sức khỏe và Đời sống