Phát hiện và điều trị sỏi mật

Sỏi mật là bệnh thường gặp, đây là nguyên nhân chính gây nhiễm khuẩn gan mật, khi có biến chứng bệnh rất dễ gây tử vong.

15.6691

Sỏi mật là bệnh thường gặp, đây là nguyên nhân chính gây nhiễm khuẩn gan mật, khi có biến chứng bệnh rất dễ gây tử vong. Hiện nay nhờ những tiến bộ của  y học giúp chẩn đoánđiều trị có nhiều thuận lợi. Sỏi mật có  hai loại chính: sỏi cholesterol và sỏi sắc tố mật, trong sỏi sắc tố  bao gồm sỏi màu đen và sỏi màu nâu.

Các yếu tố thuận lợi hình thành sỏi mật 

 Sỏi túi mật.
Bệnh sỏi mật phát triển ở tuổi 20-50, càng nhiều tuổi càng dễ bị sỏi mật. Bệnh thường gặp ở nữ giới, tỷ lệ mắc bệnh ở nữ cao hơn từ 4-6 lần so với nam giới. Các yếu tố thuận lợi tạo sỏi cholesterol: chế độ ăn nhiều chất béo và cholesterol; dùng thuốc: estrogen, thuốc clofibrate để tăng đào thải cholesterol; bệnh ở đoạn cuối của ruột non; xơ gan, cắt dạ dày; giảm co bóp của túi mật: như dùng thuốc octretide kéo dài, nuôi dưỡng  lâu dài bằng đường tĩnh mạch. Các yếu tố thuận lợi cho hình thành sỏi sắc tố mật: như nhiễm khuẩn đường mật, ở Việt Nam hay gặp  nhiễm khuẩn đường mật do giun chui từ ruột lên đường mật.

Biểu hiện lâm sàng

Trong trường hợp điển hình đau đột ngột xuất hiện, thành cơn dữ dội, đau vùng hạ sườn phải lan lên vai phải hoặc sau lưng, đau làm người bệnh lăn lộn trên giường, cũng có thể đau làm người bệnh không dám thở mạnh. Trong trường hợp không điển hình, đau chỉ âm ỉ hoặc tức nặng ở hạ sườn phải, đau đôi khi ở vùng thượng vị và lan lên ngực.

Sốt: Là do nhiễm khuẩn đường mật, nếu không có nhiễm khuẩn thì không có sốt, có thể sốt cao, rét run nhưng cũng có khi sốt nhẹ, sốt thường đi kèm với đau, có khi sốt kéo dài.

 Vàng da: Da và củng mạc mắt vàng là do tắc mật, xuất hiện khi sỏi ở ống mật chủ, ống gan hoặc trong gan tùy theo mức độ tắc mật mà vàng nhẹ hay vàng đậm. Trong trường hợp chỉ có sỏi túi mật đơn thuần thì không gây vàng da.

Khi khám bệnh: Gan to là triệu chứng thường gặp của sỏi mật, mức độ gan to phụ thuộc vào mức độ tắc mật, sỏi túi mật  không gây gan to. Tắc mật do sỏi trong ống mật chủ có thể xuất hiện túi mật to.

Để chẩn đoán đúng bệnh: Dựa vào triệu chứng điển hình kinh điển đó là: đau, sốt và vàng da. Xét nghiệm có thể thấy tăng bạch cầu trong máu, bilirubin máu tăng khi có tắc mật. Siêu âm, chụp cắt lớp vi tính và chụp cộng hưởng từ rất có giá trị giúp chẩn đoán sỏi mật. Đối với sỏi túi mật, siêu âm là phương pháp rẻ tiền mà có giá  trị cao trong chẩn đoán.

Các biến chứng của sỏi mật

Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời sỏi mật gây nhiều biến chứng nặng có thể dẫn tới tử vong như: áp-xe gan đường mật, viêm đường mật, nhiễm khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn đường mật, viêm phúc mạc do mật, viêm tụy cấp, chảy máu đường mật, viêm túi mật cấp tính, viêm túi mật mạn tính... Nếu ứ mật kéo dài sẽ dẫn tới xơ gan mật thứ phát.

Viêm túi mật cấp - một biến chứng của sỏi mật.
Các biện pháp điều trị

Điều trị hỗ trợ bằng giảm đau và kháng sinh, nhưng chủ yếu vẫn phải  lấy sỏi mật.

Đối với sỏi túi mật:

- Dùng thuốc giúp tan sỏi, áp dụng đối với sỏi cholesterol dưới 1,5cm, tốt nhất với sỏi dưới 5mm, thời gian dùng kéo dài 6-24 tháng, ursodeoxycholic acid 8-10mg/kg trọng lượng.

- Tán sỏi bằng sóng, làm tan sỏi trực tiếp bằng hóa chất.

- Cắt túi mật qua nội soi: dùng với sỏi to, gây đau nhiều hoặc gây viêm túi mật, đây là phương pháp  hiện nay thường dùng phổ biến, rút ngắn thời gian nằm viện và  hồi phục sức khỏe nhanh.

- Cắt túi mật bằng mổ phanh: áp dụng trong trường hợp mổ nội soi thất bại hoặc viêm mủ túi mật.

Đối với sỏi trong gan và ống mật chủ:

- Lấy sỏi qua nội soi ngược dòng cắt cơ oddi, áp dụng với sỏi ở ống mật chủ, sỏi nhỏ dưới 1,5cm, phương pháp này giúp tránh được phẫu thuật.

- Tán sỏi ngoài cơ thể bằng sóng, áp dụng với sỏi to.

- Phẫu thuật để lấy sỏi.

Làm cách nào để phòng bệnh và biến chứng?

Đối với nước ta, nhiễm khuẩn đường mật vẫn còn là nguyên nhân  chủ yếu dẫn đến hình thành sỏi mật, đặc biệt là nhiễm ký sinh trùng đường mật. Chính vì vậy cần  ăn uống vệ sinh như ăn uống thức ăn đã nấu chín, tẩy giun định kỳ 6 tháng/lần, rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh, không nên ăn thức ăn đường phố, trẻ em hạn chế ăn quà vặt cổng trường. Đối với người có tiền sử giun chui ống mật cần tẩy giun định kỳ 2 lần trong  một năm.

Đối với người đã có sỏi mật cần được theo dõi và điều trị kịp thời để tránh những biến chứng nguy hiểm do sỏi mật gây ra.
 

       Ở châu Âu và Mỹ phần lớn là sỏi cholesterol, sỏi chủ yếu nằm trong túi mật. Ở Việt Nam trước kia chủ yếu là sỏi sắc tố mật, sỏi thường nằm ở trong gan và ống mật chủ gây nhiễm khuẩn đường mật, còn sỏi túi mật chỉ chiếm 5-10%. Ngày nay sỏi túi mật tăng cao chiếm tới 50% trường hợp sỏi mật, đồng thời tỷ lệ sỏi cholesterol cũng tăng cao. Sự phân bố loại sỏi mật trên thế giới phụ thuộc vào chủng tộc và chế độ ăn.

ThS. Vũ Trường Khanh

0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]