Phòng bệnh giãn phế quản

Giãn phế quản (GPQ) là bệnh lý khá thường gặp. Hầu hết các bệnh nhân GPQ có triệu chứng lâm sàng điển hình (ho, khạc đờm mủ kéo dài), tuy nhiên, cũng có nhiều bệnh nhân xuất hiện GPQ không hề có triệu chứng, hoặc có triệu chứng giống hen phế quản...

15.6032

Giãn phế quản (GPQ) là bệnh lý khá thường gặp. Hầu hết các bệnh nhân GPQ có triệu chứng lâm sàng điển hình (ho, khạc đờm mủ kéo dài), tuy nhiên, cũng có nhiều bệnh nhân xuất hiện GPQ không hề có triệu chứng, hoặc có triệu chứng giống hen phế quản... Bệnh có thể ảnh hưởng nặng nề đến tim, phổi, gan, thận nên cần phải phát hiện và điều trị sớm, tránh các biến chứng nặng có thể xảy ra.

Thế nào là giãn phế quản?

Là tình trạng giãn không hồi phục của cây khí phế quản, có thể GPQ khu trú chỉ ở một vùng của phổi, tuy nhiên, phần lớn các trường hợp GPQ là giãn lan tỏa, bị cùng lúc khắp các vị trí lòng phế quản ở cả hai bên. Do lòng phế quản bị giãn rộng, các lông chuyển ở đường hô hấp bị tổn thương, do vậy ảnh hưởng nghiêm trọng tới việc vận chuyển đờm và các chất tiết đường hô hấp ra ngoài. Khi chất tiết, dịch đường hô hấp bị ứ đọng, tạo điều kiện thuận lợi cho nhiễm khuẩn đường hô hấp, quá trình nhiễm khuẩn này lại gây tổn thương niêm mạc đường thở, làm cho tình trạng GPQ ngày một nặng thêm.

 Hình ảnh giãn phế quản trên cơ thể người.
Các biểu hiện của bệnh

Nhiều đờm: là dấu hiệu gợi ý chẩn đoán, những bệnh nhân điển hình, có thể thấy khạc đờm rất nhiều, mỗi ngày có thể khạc ra tới 500ml, thậm chí có trường hợp khạc ra đến 1 lít đờm mủ. Đờm có thể có mùi hôi, thối, màu xanh, vàng hoặc đục như mủ.

Ho ra máu: ho, khạc ra máu lẫn đờm, lượng máu có thể ít (dưới 50ml) hoặc nhiều (> 200ml). Có trường hợp máu có thể ộc ra, gây tắc nghẽn đường thở, làm bệnh nhân khó thở dữ dội và có thể tử vong.

Khó thở: đây cũng là biểu hiện khá thường gặp, một số bệnh nhân có thể có khó thở với tiếng cò cử, làm nhầm tưởng với bệnh hen phế quản.

Đau ngực: là dấu hiệu sớm của nhiễm khuẩn phổi ở vùng GPQ.

Móng tay hình mặt đồng hồ (hình vòm) hoặc phía cuối của đốt cuối ngón tay có hiện tượng to ra (ngón tay dùi trống): là một dấu hiệu điển hình có thể gặp ở một số người bệnh GPQ. Khi khám phổi có thể nghe thấy ran ẩm, ran nổ và rì rào phế nang giảm.

Bệnh nhân có sốt.

Nguyên nhân nào gây giãn phế quản?

Cấu trúc phế quản bị dị tật bẩm sinh: GPQ lan tỏa cộng với viêm xoang, cộng với phủ tạng đảo lộn (vị trí của tim chuyển sang bên phải) do rối loạn hoạt động của lông tuyến phế quản.Khuyết tật hoặc không có sụn ở phế quản nên phế quản phình ra khi hít vào, xẹp xuống khi thở ra.

Do viêm hoại tử ở thành phế quản: GPQ sau nhiễm khuẩn phổi như lao, viêm phổi vi khuẩn, virut, sởi, ho gà, do dịch dạ dày hoặc máu bị hít xuống phổi, hít thở khói hơi độc (khí amoniac), do nhiễm khuẩn phế quản tái diễn.

Do bệnh xơ hóa kén: chiếm tỷ lệ 50% các trường hợp GPQ.

Do phế quản lớn bị tắc nghẽn: lao hạch phế quản, hoặc dị vật rơi vào phế quản ở trẻ em, u phế quản hoặc sẹo xơ gây chít hẹp phế quản sau khi bị giập vỡ ở phế quản lớn do chấn thương lồng ngực.

Do tổn thương xơ hoặc u hạt co kéo thành phế quản: lao phổi xơ, lao xơ hang, áp-xe phổi mạn tính, bệnh phế nang viêm xơ hóa.

Rối loạn thanh lọc nhày nhung mao.  

Rối loạn cơ chế bảo vệ phổi do suy giảm miễn dịch: HIV, bạch cầu...

Có điều trị được triệt để không?

Bệnh GPQ không thể điều trị khỏi hoàn toàn, các bệnh nhân thường chỉ đến viện mỗi khi có đợt cấp. Bác sĩ sẽ chỉ định dùng kháng sinh. Thời gian dùng kháng sinh thường từ 10 - 15 ngày. Những trường hợp GPQ rất nặng, thời gian dùng kháng sinh có thể kéo dài hơn, thậm chí tới 1 tháng.

Dẫn lưu đờm là liệu pháp điều trị rất quan trọng, có thể coi có tầm quan trọng như dùng kháng sinh. Các biện pháp dẫn lưu đờm thường hay dùng bao gồm: Hướng dẫn cho bệnh nhân cách ho, khạc đờm sâu và vỗ rung lồng ngực, kết hợp dẫn lưu tư thế hàng ngày. Mỗi lần làm kéo dài 15 - 20 phút, ngày làm từ 2 - 3 lần. Việc vỗ rung và dẫn lưu tư thế tiếp tục được duy trì tại nhà cho bệnh nhân. Nếu bệnh nhân có khó thở, nghe phổi có ran rít, ngáy, bệnh nhân thường được dùng thêm các thuốc GPQ đường uống hoặc khí dung hoặc kết hợp cả hai. Các thuốc có thể được dùng bao gồm các thuốc GPQ: salbutamol, terbutaline, thuốc kháng cholinergic, theophylline, bambuterol...

Cần nhấn mạnh GPQ là bệnh không thể chữa khỏi hoàn toàn được. Việc điều trị GPQ chủ yếu nhằm ngăn ngừa, điều trị các đợt bùng phát do bội nhiễm. Tuy nhiên, người bị GPQ không nên bi quan, nhiều bệnh nhân có cuộc sống và sinh hoạt gần như người khỏe mạnh do tuân thủ chặt chẽ những hướng dẫn của thầy thuốc.

Cần phải làm gì để phòng bệnh?

Cần tuân thủ đầy đủ các hướng dẫn điều trị của thầy thuốc: Tiêm vaccin phòng cúm hàng năm và tiêm vaccin phòng phế cầu; Vỗ rung ngực hàng ngày: nên tiến hành vỗ rung ngực đều đặn, bạn nên hỏi bác sĩ xem tư thế vỗ rung nào là phù hợp nhất với bạn (đó là tư thế để phần phổi bị GPQ ở chỗ cao nhất). Khi vỗ rung, khum bàn tay và vỗ đều lên lưng vùng có GPQ bên dưới. Lực vỗ đều, kết hợp hít sâu, thở mạnh sau vỗ rung để tống đờm ra ngoài. Mỗi lần vỗ rung kéo dài 15 - 20 phút. Mùa lạnh nên giữ ấm cổ, giữ môi trường trong nhà luôn sạch, thoáng, khô. Khi đi đường nên đeo khẩu trang để tránh bụi. Cần giữ gìn vệ sinh sạch sẽ hệ hô hấp, răng miệng. Nếu bị viêm mũi, xoang cần điều trị dứt điểm, tránh biến chứng sang GPQ.       
 
BS. Nguyễn Minh Châu
0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]