Phòng và trị viêm da mủ

Bình thường trên da có nhiều tạp khuẩn, phần lớn là tụ cầu khuẩn và liên cầu khuẩn, tập trung nhiều nhất ở vùng có nhiều lông, vùng đọng mồ hôi như các nếp kẽ, các lỗ chân lông. Trong những điều kiện thuận lợi như cơ thể suy yếu, giảm sức đề kháng, vệ sinh kém, ngứa gãi làm xây sát da thì các vi khuẩn trên tăng sinh, tăng độc tính gây nên bệnh ngoài da gọi chung là viêm da mủ.

15.5878
Người ta thường phân chia làm 2 nhóm bệnh viêm da mủ, một nhóm do tụ cầu khuẩn, một nhóm do liên cầu khuẩn gây nên. Viêm da mủ do tụ cầu khuẩn Tụ cầu khuẩn thường gây tổn thương ở nang lông. Có những thể bệnh chính sau... Viêm nang lông nông: Viêm nông ở đầu lỗ chân lông. Ban đầu lỗ chân lông hơi sưng đỏ, đau, sau đó thành mụn mủ nhỏ, quanh chân lông có quầng viêm hẹp. Vài ngày sau, mụn mủ khô, để lại một vẩy tiết màu nâu sẫm. Sau cùng vẩy bong đi, không để lại sẹo. Viên nang lông sâu: Quanh nang lông sưng tấy nhiều cụm, quanh lỗ chân lông có mụn mủ. Mụn mủ có thể rải rác hoặc tập trung thành đám đỏ, cứng cộm, gồ ghề, nặn ra mủ. Viêm nang lông sâu ở vùng cằm, gáy, vùng da đầu tiến triển dai dẳng, hay tái phát. Ðiều trị: phải dùng kháng sinh toàn thân từng đợt, kết hợp với các vitamin, chế độ ăn nhiều đạm làm tăng sức đề kháng của cơ thể. Nhọt: Cũng là một tình trạng viêm nang lông. Nếu nhọt to, số lượng nhiều có thể kèm theo sốt, hạch bạch huyết sưng đau. Nhọt ở lỗ tai rất đau, dân gian còn gọi là đằng đằng. Nhọt ở quanh miệng còn gọi là "đinh râu" rất nguy hiểm vì có thể gây tắc tĩnh mạch, nhiễm khuẩn huyết dễ gây tử vong. Hậu bối còn gọi là đinh hương sen là một cụm đinh nhọt gặp ở gáy, lưng, mông do tụ cầu vàng có độc tính rất cao, hay gây bệnh ở người già yếu, nghiện rượu, tiểu đường, ăn uống kém. Khi vỡ mủ có nhiều ngòi lỗ chỗ như tổ ong, có thể có biến chứng nhiễm khuẩn huyết và tử vong. Nhọt bày là nhiều đinh nhọt mọc liên tiếp hết đợt này đến đợt khác dai dẳng hàng tháng. Thường gặp ở người suy nhược, giảm sức đề kháng. Ðiều trị: kháng sinh đủ mạnh, dùng càng sớm càng tốt. Có thể cho uống, tiêm hoặc truyền tĩnh mạch. Dùng các vitamin, đạm, gama globulin để nâng cao sức đề kháng của cơ thể. Tại chỗ tuyệt đối không chích nặn ở giai đoạn đang viêm tấy, chưa hóa mủ. Bởi vì nặn sớm sẽ dễ bị biến chứng nhiễm khuẩn huyết, rất nguy hiểm. Nhọt ổ gà: là một viêm nang, kèm theo viêm tuyến mồ hôi, tuyến bã ở vùng nách, tạo thành một túi mủ sâu ở bì và hạ bì. Tổn thương nổi thành cục ở vùng nách, ban đầu cứng sau mềm dần, vỡ mủ. Có thể có một hoặc nhiều nhọt ổ gà trong một hố nách. Bệnh thường tiến triển dai dẳng, hay tái phát, nhất là về mùa hè. Ðiều trị: dùng kháng sinh toàn thân từng đợt. Ðối với tổn thương tái phát nhiều lần có thể phải phẫu thuật. Viêm da mủ do liên cầu khuẩn Chốc lây: do tụ cầu khuẩn và liên cầu khuẩn phối hợp gây bệnh. Trẻ em hay bị hơn người lớn. Vị trí hay gặp là đầu, mặt, cổ, chân tay. Bệnh rất dễ lây từ trẻ này sang trẻ khác, nên có thể thành dịch ở nhà trẻ, trường học. ở trẻ em, chốc đầu tạo thành từng đám vẩy vàng sâu dính bết tóc, dưới lớp vảy, da trợt đỏ, rớm dịch. Hạch ở vùng lân cận thường sưng đau. Bệnh có thể gây biến chứng viêm cầu thận cấp biểu hiện bằng phù, tiểu ít, xét nghiệm có protein niệu. Ðiều trị: phải dùng kháng sinh toàn thân sớm tại chỗ. Dùng các thuốc sát trùng bôi, đắp gạc cho bong hết vẩy, sau đó bôi xanh methylen 1% hoặc dùng dung dịch milian. Khi vẩy tróc bong hết có thể bôi các loại mỡ kháng sinh Chốc loét: là một loại chốc, nhưng tổn thương lan sâu đến trung bì. Thường gặp chốc loét ở bệnh nhân suy dinh dưỡng có bệnh tiểu đường hoặc nghiện rượu. Vị trí: hay gặp ở cẳng chân, cổ chân, nhất là ở chân có giãn tĩnh mạch. Bệnh bắt đầu như chốc lây bằng một phỏng nước hoặc phỏng mủ. Da xung quanh vết loét tím tái, tiến triển dai dẳng, lâu liền sẹo. Ðiều trị: phải dùng kháng sinh nhiều đợt, kết hợp với vitamin, đạm, chiếu tia cực tím. Hăm kẽ: còn gọi là viêm bì thượng bì vi khuẩn. Thường gặp ở trẻ em, nhất là trẻ em mập mạp hoặc ở người lớn béo mập, ra mồ hôi nhiều. Hăm kẽ thường thấy ở nếp cổ, kẽ bẹn, kẽ mông, kẽ sau tai, rốn. Tổn thương là các đám đỏ, trợt, rớm dịch, phía ngoài thường có viền róc da mỏng, đau rát. Ðiều trị: rửa sạch tổn thương bằng nước thuốc tím 1/4.000. Chấm dung dịch yarish. Chốc mép: thường gặp ở trẻ em. Tổn thương đơn độc hoặc kèm theo các tổn thương khác do liên cầu khuẩn. Hai kẽ mép bị nứt trợt, rớm dịch, đóng vẩy vàng dễ chảy máu, đau rát làm cho trẻ khó ăn, khó uống. Có thể lây do uống chung chén, dùng chung khăn mặt. Thường kèm theo sưng đau hạch dưới hàm.

Ðiều trị: chấm dung dịch yarish, thuốc màu, thuốc mỡ kháng sinh.

BS. Trần Ðăng Quyết (SK&ĐS) 
0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]