Siêu mầm bệnh đề kháng: Mối nguy luôn chực sẵn

Trước đây đã xảy ra khủng hoảng toàn cầu với sự xuất hiện loại siêu mầm bệnh có khả năng đề kháng nhiều loại kháng sinh.

0
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã cảnh báo tình trạng đề kháng kháng sinh đang là mối quan ngại toàn cầu và việc nâng cao nhận thức trước sự xuất hiện các loại “siêu mầm bệnh” (superbugs) độc hại là khẩn thiết, thông qua khẩu hiệu: “Chống kháng thuốc, không hành động hôm nay ngày mai không có thuốc chữa”.

Cảnh báo đưa ra bởi trước đó đã xảy ra khủng hoảng toàn cầu với sự xuất hiện loại siêu mầm bệnh có khả năng đề kháng nhiều loại kháng sinh, kể cả các loại dự trữ dùng trong cấp cứu sau cùng.

Gọi “siêu mầm bệnh” nhưng thực chất là “vi khuẩn siêu đề kháng”, bởi mầm bệnh là loại vi khuẩn rất nguy hiểm đã đột biến gen, mang gen tiết ra enzym New Dehli metallo beta-lactamase (viết tắt NDM-1), đề kháng các kháng sinh trong nhóm carbamenem, thuộc loại rất mạnh và dự trữ sau cùng, chỉ dùng khi bị nhiễm khuẩn rất nặng.

Chân tướng các siêu mầm bệnh

Siêu mầm bệnh đã được nhận diện là Klesiella pneumoniae, thường gây bệnh viêm phổi, gọi tắt CRKP (Carbapenem-Resistant Klebsiella Pneumoniae).

Trước khi CRKP xuất hiện, các nhà điều trị đã khốn đốn vì phải đối phó với Staphylococcus aureus (S.aureus).

Đây là vi khuẩn gây bệnh nhiễm khuẩn ngoài da, mô mềm, lộng hành ở vết thương, vết mổ. Mấy chục năm qua, giới y dược lo trị cho bằng được MRSA (Methicillin-Resistant Staphylococcus Aureus, tức S.aureus kháng kháng sinh thuộc nhóm methicillin).

Chưa kịp nghỉ ngơi thì xuất hiện VRSA (Vancomycin-Resistant Staphylococcus Aureus, tức S.aureus kháng vancomycin, là kháng sinh dự trữ sau cùng trị vi khuẩn này).

Hiện MRSA, VRSA, CRKP được xem là nỗi kinh hoàng của giới chức y tế. Chỉ riêng MRSA hàng năm gây chết khoảng 20.000 người ở Mỹ.

Sau hơn ba tháng, kể từ ngày WHO tổ chức ngày Sức khoẻ thế giới (7/4/2011), đưa ra khẩu hiệu chống kháng thuốc, nhiễm khuẩn Escherichia coli (E.coli) cũng trở thành vấn đề y tế công cộng gây khủng hoảng nhiều nước ở châu Âu.

E.coli độc hại này được xác định do biến đổi gen thành chủng mới, có mã hiệu E.coli 0104:H4, không chỉ đề kháng các kháng sinh thông thường mà còn tiết ra độc tố gây hội chứng tan máu trong nước tiểu, đưa đến xuất huyết do giảm tiểu cầu và suy thận, có thể gây tử vong ở người bệnh.

Đức đã phải dùng đến thuốc đặc biệt là eculizumab (Soliris) chứ không phải kháng sinh thông thường để điều trị E.coli 0104:H4.

Kháng sinh bị vô hiệu hoá bằng cách nào?

Vi khuẩn có thể đề kháng kháng sinh bằng nhiều cơ chế khác nhau.

Thứ nhất, chúng tự sản xuất ra các enzym phá huỷ cấu trúc và làm mất tác dụng kháng sinh.

Thứ hai, nhiều kháng sinh chỉ cho tác dụng khi thấm qua lớp vỏ tế bào vi khuẩn và vi khuẩn đề kháng lại bằng cách tự tổng hợp lớp vỏ tế bào khác đi để kháng sinh không thấm qua.

Thứ ba, một số vi khuẩn đề kháng lại kháng sinh nhóm tetracyclin bằng cách tự chế tạo một loại “bơm” đặc biệt để tống kháng sinh ra khỏi cơ thể chúng.

Và cuối cùng, thường kháng sinh chỉ tấn công vào một nơi nhất định trên cơ thể vi khuẩn (gọi là đích tác dụng), vi khuẩn đề kháng lại bằng cách biến đổi đích tác dụng này, xem như kháng sinh bị vô hiệu hoá.

Biện pháp phòng nhiễm khuẩn E.coli 0104:H4

E.coli thường lây lan qua đường tiêu hoá. Do đó, nên rửa tay bằng xà bông trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh.

Nấu chín thức ăn, tránh ăn rau cải sống chưa rửa kỹ. Tránh ăn thức ăn còn lại từ hôm trước mà không nấu lại ở nhiệt độ sôi thích hợp…

Đây là những biện pháp hữu hiệu và đơn giản để giảm nguy cơ lây lan E.coli nói chung và E.coli 0104:H4 nói riêng trong cộng đồng.

Có khoảng 10% trường hợp vi khuẩn thoát khỏi sự tấn công của kháng sinh theo một trong bốn cơ chế đề kháng nói trên và bắt nguồn từ đột biến gen trên nhiễm sắc thể của tế bào vi khuẩn (gọi là “đề kháng nhiễm sắc thể”), nên có tính di truyền, tức vi khuẩn bố mẹ truyền tính đề kháng này cho con cháu và cứ thế phát triển.

Tuy nhiên, nguy hại hơn là với 90% trường hợp còn lại, tính đề kháng truyền không chỉ từ vi khuẩn bố mẹ sang vi khuẩn con cái mà còn từ vi khuẩn loại này sang vi khuẩn loại khác, thông qua một cấu trúc di truyền có tên PLASMID, nằm ngoài nhiễm sắc thể của tế bào vi khuẩn (đề kháng loại này gọi là “đề kháng ngoài nhiễm sắc thể”).

Về trường hợp vi khuẩn đề kháng mang gen NDM-1 là CRKP và E.coli 0104:H4, hai vi khuẩn đã cũng đột biến gen ở plasmid, để có tính đề kháng ngoài nhiễm sắc thể. Riêng E.coli 0104:H4 thì đột biến để đưa đến lực độc mạnh hơn.

Để cải thiện đề kháng kháng sinh

Nên dành quyền chỉ định kháng sinh cho thầy thuốc. Không tự ý sử dụng kháng sinh một cách bừa bãi. Khi được bác sĩ ghi đơn chỉ định dùng kháng sinh, nên dùng đúng liều lượng, đúng lúc, đủ thời gian như chỉ định, không ngưng, bỏ thuốc nửa chừng.

Lưu ý, có một số kháng sinh không dùng ở phụ nữ có thai, phụ nữ cho con bú, trẻ con. Muốn dùng, phải để bác sĩ khám bệnh và chỉ định.

Một số bệnh nhiễm khuẩn có triệu chứng sốt nhưng không phải tất cả các trường hợp bị nóng sốt đều do nhiễm khuẩn.

Hơn nữa, nếu thực sự bị nhiễm khuẩn, dùng kháng sinh đủ liều thường kéo dài nhiều ngày (thông thường 5 - 7 ngày). Vì vậy, không nên chỉ mới thấy cảm sốt sơ sơ là vội uống vài viên kháng sinh rồi thôi.

Trên nguyên tắc, nếu vi khuẩn còn nhạy cảm với kháng sinh cổ điển, thông dụng thì sử dụng kháng sinh loại này và tránh dùng loại mới.

Hiện có tình trạng rất đáng lo là một số người bị bệnh nhưng không chịu đến bác sĩ để được khám và hướng dẫn điều trị mà nghe lời mách bảo tìm mua các loại kháng sinh mới nhất để tự chữa bệnh. Làm như thế không chỉ hại bản thân (dùng thuốc không đúng, bệnh nặng thêm) mà vô tình có thể hại cho cộng đồng.

Những kháng sinh mới được khuyến cáo chỉ dùng trong bệnh viện hoặc khi có chỉ định cân nhắc của bác sĩ điều trị. Đó là thuốc quý có tính dự trữ, nếu sử dụng bừa bãi chắc chắn trong thời gian ngắn sẽ bị lờn, đề kháng.

Thử tưởng tượng đến lúc nào đó, tất cả các kháng sinh đều bị đề kháng và không tìm được thuốc mới thay thế, đó sẽ là thảm cảnh của nhân loại!

Theo PGS.TS.DS Nguyễn Hữu Đức - Sài Gòn Tiếp Thị

0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]