Sự quý hiếm của sừng tê giác
Không phải đến bây giờ sừng tê giác mới được xem là loại dược phẩm quý hiếm. Vào thời Hán ở Trung Quốc, do sự sát hại tê giác trong suốt thời Ðông Chu, sừng tê giác đã trở nên rất khan hiếm, đến nỗi chúng phải được nhập khẩu từ nước ngoài. Cuối thời Tây Hán, sừng tê giác được coi là một thứ trang sức quý giá, sau này người ta đã tìm thấy những cái chén làm bằng sừng tê giác được chôn theo chủ nhân của nó cùng nhiều sừng tê giác giả làm bằng gỗ và đất sét. Trong quá trình khai quật, các nhà khảo cổ cũng đã tìm thấy những bộ xương hoàn chỉnh của loài tê giác một sừng Javan trong các lăng mộ thời Tây Hán.
Những bằng chứng khảo cổ này đã khẳng định lại những ghi chép lịch sử tìm thấy vào thời Thục Hán liên quan đến hoàng đế Wang Mang thời Hán hay triều Tần. Sau khi chiếm ngôi vua Hán, để củng cố thế lực, Wang Mang đã cử người sang các nước chư hầu để gợi ý cống nạp sừng tê giác cho triều đình của ông. "Trong suốt thời kỳ Hoàng thái hậu nắm quyền, quyền lợi của mọi người đều được gia tăng và một bầu không khí hòa bình trải dài khắp bốn phương, tới cả các vùng đất xa xôi với những phong tục tập quán khác nhau. Tất cả mọi người đều ngưỡng mộ sự công bằng của triều đại này. Yuetanzi đã gửi những con chim trắng vượt qua một quãng đường dài và không chỉ có vậy, Huangzhi còn gửi những con tê giác sống từ cách đó 30 dặm". Việc những con tê giác được gửi như vật cống phẩm từ thế kỷ I đã cho thấy một sự thật là tê giác cực kỳ hiếm ở vùng bắc và trung Trung Hoa vào thời này. Những con tê giác cống nạp là thú vui của hoàng đế nhà Hán và chúng được nuôi trong những khu rừng săn bắn của hoàng gia gần Tràng An.
Cũng vào thời kỳ này, triều đại nhà Hán giành được nhiều thắng lợi và biến phương nam thành thuộc địa của mình. Một sự thay đổi quan trọng đã diễn ra trong những chuyến hải hành trên biển Ả Rập, các thương gia vùng Ðịa Trung Hải đã lợi dụng gió mùa Tây nam để đi thẳng tới miền nam Ấn Ðộ. Việc giao dịch thương mại, đặc biệt là các mặt hàng gia vị và vải lụa được buôn bán rất mạnh giữa miền đông và miền tây bằng đường biển dọc theo châu Á, hình thành nên con đường tơ lụa nổi tiếng.
Xem xét trên bản đồ con đường tơ lụa trên biển ngày đó, ta có thể thấy những con tàu này đi từ biển nam Trung Hoa đến vịnh Bengal. Từ đó hàng hóa được chuyển tới các bán đảo từ Coimbatore Gap sang phía tây, hay từ bờ biển Malabar chuyển tới biển Hy Lạp rồi sang các nước phương Tây.
Bên cạnh đó, dựa vào tính chất của gió mậu dịch, hàng năm các thương gia phương Tây phải neo lại cảng Tamil (nam Ấn Ðộ) khoảng 3 tháng để chờ gió mùa. Trong thời gian này mối quan hệ thương mại giữa người Hán và người Roma đã phát triển. Việc buôn bán, trao đổi không chỉ dừng lại ở gia vị, tơ lụa mà còn gồm những hàng hóa có giá trị khác như sừng tê, ngà voi... Rồi những câu chuyện về con kỳ lân của Trung Hoa cũng đã dần dần thâm nhập vào văn hóa Ấn Ðộ. Hình ảnh của chúng xuất hiện khá nhiều trong các tác phẩm nghệ thuật bằng đất nung của người Ấn Ðộ trong nền văn minh Indus. Không chỉ có vậy, cả những câu chuyện về con tê giác một sừng cũng đã xuất hiện vào thời gian này.
Mặc dù chưa có đầy đủ bằng chứng, nhưng có lẽ chính các thương gia từ Ấn Ðộ Dương tới biển Ðỏ là những người đầu tiên dùng sừng tê giác làm cán dao trong các buổi tế lễ quan trọng như Jiambiyya. Vào thời bấy giờ, những vũ khí thủ công ấy chính là một trong những phần không thể thiếu của trang phục truyền thống đàn ông nước Yemen, Oma hay Ả Rập, một đồ vật được coi là rất quý giá, chứng tỏ giá trị to lớn của sừng tê giác. Ðến nay, nhu cầu sử dụng sừng tê giác làm thuốc ngày càng cao và Ðài Loan là nơi tiêu thụ mạnh nhất.