Thuốc An cung ngưu hoàng hoàn dùng như thế nào?

SKĐS -An cung ngưu hoàng hoàn được quảng cáo như một “thần dược” cấp cứu và điều trị đột quỵ, nhồi máu não, mặc dù giá cả đắt đỏ, vẫn được rất nhiều người tìm mua, vậy An cung ngưu hoàng hoàn được dùng như thế nào?

15.6028

Mấy năm gần đây, tại TP.Hồ Chí Minh và Hà Nội có bán rất nhiều loại sản phẩm An cung ngưu hoàng hoàn - từ hàng Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan đến của Hàn Quốc…; từ sản phẩm có đăng ký đến hàng xách tay. Nhưng chiếm nhiều nhất vẫn là hàng của Trung Quốc dưới dạng xách tay với giá từ 500.000 đồng đến 2.000.000 đồng/viên. 

Được quảng cáo như một “thần dược” cấp cứu và điều trị đột quỵ, nhồi máu não, thế nên mặc dù giá cả đắt đỏ, vẫn được rất nhiều người tìm mua, thậm chí nhiều gia đình có người già cũng dự trữ vài viên trong tủ lạnh phòng khi cần đến. Mới đây, Cục Quản lý dược vừa đề nghị Cục An toàn thực phẩm (ATTP) có biện pháp xử lý đối với sản phẩm An cung ngưu hoàng hoàn (Angungguhwangwan, của Triều Tiên), vì qua kiểm nghiệm cho thấy sản phẩm này có chứa nhiều kim loại nặng gây độc hại cho cơ thể (gồm asen, chì, thủy ngân) ở mức quá cao. Vậy “An cung ngưu hoàng hoàn” được dùng như thế nào?

An cung ngưu hoàng hoàn chỉ có tác dụng tương đối chứ không phải là tiên dược, thần dược như đồn thổi.

là đơn thuốc cổ phương, ghi trong “Ôn bệnh điều biện phương” và trong nhiều sách thuốc. Công thức gồm 11 vị: Ngưu hoàng 1 lạng, uất kim 1lạng, chi tử 1 lạng, hoàng cầm 1 lạng, hoàng liên 1 lạng, chu sa 1 lạng, minh hùng hoàng 1 lạng, tê giác 1 lạng, trân châu 5 tiền, mai phiến 2,5 phân, xạ hương 2,5 phân. Cách bào chế: Các vị nghiền thành bột mịn, rây, trộn cho thật đều. Luyện mật thành hoàn. Mỗi hoàn nặng 1 tiền (3,15 g). Lấy vàng lá bọc kín làm áo. Đựng trong bao sáp ong. Với công năng thanh nhiệt, giải độc, trấn tâm, an thần, được chủ trị nhiệt tà hãm bên trong, tinh thần mệt mỏi, mê sảng, kinh giật. Mỗi ngày uống 1 - 3 lần, mỗi lần uống 1 hoàn cùng với nước sôi để vừa nguội, tùy thể bệnh. Chữa cho trẻ em giảm bớt liều tuỳ theo tuổi (1/2 hoặc 1/3 viên).

Một số sách còn chú ý: Phụ nữ có thai và tạng hàn tránh dùng. Người mạch hư thì chiêu thuốc với nước nhân sâm; người mạch thực thì chiêu thuốc với nước ngân hoa, bạc hà.

Giải thích bài thuốc:

Khi nhiệt tà nhập huyết thất không chữa ngay, nhiệt tà ủng thịnh, nhiệt quá hóa điên rồ, chạy khắp đây đó, không gỡ cản nổi, núi mờ núi sảng như bị ma làm, không biết người quen người lạ, đó là tà truyền Thủ Quyết âm (tức tâm bào) chứ không ở tỳ quyết âm (tức huyết thất) nữa, nên nếu dùng “Tiểu sài hồ thang gia giảm” hay “Thanh nhiệt hành huyết thang” đều không cứu được, mau cho dùng bài này - đại thanh tâm nhiệt, khiến thần hồn minh mẫn, sáng suốt.

Bài thuốc dùng nhiều vị thuốc phương hương hóa uế trọc và lợi các khiếu; vị hàm hàn thì bổ thủy thận và an tâm thể; vị khổ hàn thì thông hỏa phủ và tả tâm hỏa. Ngưu hoàng thông thần của tâm chủ. Tê giác chủ trị bách độc tà quỷ chướng khí. Chân trâu thông thần minh, hợp với tê giác để bổ thủy cứu hỏa. Uất kim, mai phiến, hùng hoàng là các thảo, mộc, thạch có hương; xạ hương là tinh huyết có hương; hợp các thứ hương lại thì đủ sức tống ra ngoài hết thảy tà nhiệt ôn độc bế kết sâu trong quyết âm. Như vậy là tà uế tự tiêu và thần minh trở lại. Hoàng liên tả tâm hỏa; chi tử tả tâm hỏa và tam tiêu hỏa. Hoàng cầm tả hỏa ở đởm phế khiến tà hỏa theo các vị hương nhất tề giải tán. Chu sa bổ tâm thể, hợp với vàng lá để truy đàm và chấn cố, lại hợp với chân trâu, tê giác làm vị chủ súy để đốc chiến cả mặt trận.

Theo dược lý hiện đại, bài thuốc có tác dụng trấn tĩnh chống co giật, hạ sốt, kháng viêm, có tác dụng bảo vệ tế bào não, chống các tổn thương não do nội độc tố vi khuẩn, tác dụng điều hòa hoạt động mạch máu tim. Hiện nay, thuốc thường dùng điều trị viêm màng não tủy, viêm não B, hôn mê gan, urê huyết, tai biến mạch máu não, chấn thương sọ não, viêm gan hoàng đản, nhiễm khuẩn hay trúng độc với các triệu chứng: sốt cao, phiền táo, mê man nói sảng, lưỡi đỏ hoặc hồng.

Thuốc không được dùng liều cao và kéo dài vì có asen chiếm 86,2% trong hùng hoàng, thủy ngân chiếm 70,1% trong chu sa. Hai kim loại nặng này rất độc và tích lũy lâu dài trong cơ thể gây ra nhiều bệnh (mệt mỏi, buồn nôn, hồng cầu và bạch cầu giảm; mạch máu bị tổn thương, rối loạn nhịp tim, đau mắt, đau tai, viêm dạ dày và ruột làm kiệt sức, gây mụn lột, ung thư, bệnh đái tháo đường…), dễ gây tử vong hoặc thành người đần độn si ngốc …

TS. Nguyễn Đức Quang

 

 

0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]