Thuốc điều trị bệnh máu nhiễm mỡ

Trong khi dùng thuốc để điều trị, bệnh nhân mắc bệnh máu nhiễm mỡ còn cần có cả chế độ ăn uống và luyện tập đảm bảo.

15.6051

Báo điện tử VnMedia cho biết, máu nhiễm mỡ còn được gọi là rối loạn chuyển hóa lipid máu hay mỡ máu cao. Bình thường trong máu có một tỷ lệ mỡ nhất định, được đánh giá bằng chỉ số xét nghiệm cholesterol, triglycerid… Nếu các chỉ số này cao hơn mức cho phép thì gọi là máu nhiễm mỡ. Trong đó, cholesterol cao là chỉ số đặc trưng của bệnh.

Chất béo bản thân không phải là một chất độc đối với cơ thể mà còn là một dưỡng chất cần thiết để duy trì sự sống. Nhưng nếu dư thừa, nó có thể gây ra những rối loạn bệnh lý nguy hiểm.

Biểu hiện của bệnh máu nhiễm mỡ

Máu nhiễm mỡ có thể bắt đầu từ khoảng 20 tuổi trở lên, diễn biến bệnh kéo dài, không có biểu hiện gì rõ rệt và thường chỉ được phát hiện qua xét nghiệm máu. Hầu hết bệnh nhân đến gặp bác sĩ thường là đã ở giai đoạn muộn, khi các chất béo dư thừa trong máu đã lắng thành xơ mạch máu, gây xơ vữa động mạch.

Nếu không được điều trị kịp thời, lớp mỡ ngày càng dày lên và có thể làm tắc mạch máu, hậu quả là lượng máu không đủ để nuôi các cơ quan trong cơ thể.

Mặc dù khó nhận biết nhưng những dấu hiệu sau có thể cho biết bạn đang bị bệnh máu nhiễm mỡ: Da có những nốt phồng nhỏ bề mặt bóng loáng, màu vàng, mọc nhiều trên da mắt, khuỷu tay, bắp đùi, gót chân, da, lương, ngực…to bằng đầu ngón tay, màu vàng nhạt, không đau, không ngứa.

Khi bệnh phát triển nặng, có thể xuất hiện các triệu chứng như đau đầu, choáng, hoa mắt, bứt rứt trong người, thở ngắn, hồi hộp,…cơ thể phì mập, xét nghiệm máu các bác sĩ chỉ cho biết mỡ máu tăng hơn mức bình thường.

Mắc bệnh máu nhiễm mỡ: Dùng thuốc gì?

Theo Sức khỏe và Đời sống, các thuốc điều trị bệnh máu nhiễm mỡ bao gồm:

- Các loại renins gắn acid mật: Các thuốc cholestyramine (questran), colestipol (colestid)... không hấp thu qua ruột mà gắn với acid mật làm giảm hấp thu của chúng. Do vậy, thuốc sẽ làm tăng chuyển hóa từ cholesterol sang acid mật trong gan, làm giảm lượng dự trữ cholesterol trong gan và làm tăng hoạt tính của thụ thể lipopotein tỷ trọng thấp (LDL) của gan.

Thuốc làm giảm LDL-C tới 30%, làm tăng lipoprotein tỷ trọng cao (HDL-C) khoảng 5% nhưng làm tăng nhẹ triglycerid. Do vậy, thường dùng kết hợp với thuốc khác và không dùng khi triglycerid tăng cao. Tác dụng phụ có thể gặp bao gồm táo bón, đau bụng, buồn nôn, nôn, nóng ruột...

- Nicotinic acid (niacin): Đây là một loại vitamin tan trong nước, ức chế gan sản xuất ra các lipoprotein. Các thuốc này làm giảm LDL-C tới 25% và tăng HDL-C từ 15 - 35%. Liều dùng thuốc bắt đầu nên thấp, sau đó có thể tăng liều.

Tác dụng phụ: cảm giác đỏ bừng da rất hay gặp (hầu như gặp ở tất cả các bệnh nhân). Có thể tránh bằng cách uống thuốc trong bữa ăn hoặc uống 100mg aspirin trước mỗi lần dùng thuốc 30 phút. Các tác dụng phụ khác bao gồm mẩn ngứa, buồn nôn, nôn...

Không được dùng thuốc nhóm này cho bệnh nhân bị gút, loét dạ dày tá tràng, viêm đại tràng mạn. Với bệnh nhân đái tháo đường dùng cần thận trọng.

- Thuốc ức chế men HMG-CoA reductase (nhóm statin): Bao gồm simvastatin (zocor), lovastatin, pravastatin, fluvastatin, atorvastatin (lipitor). Các thuốc này ức chế hoạt hóa men HMG-CoA Reductase làm giảm hoạt động tổng hợp cholesterol trong tế bào gan và tăng hoạt hóa thụ thể LDL, do đó làm giảm LDL-C trong máu.

Tuy nhiên khi dùng thuốc người bệnh có thể gặp: khó tiêu, ỉa chảy, táo bón, buồn nôn, đau bụng, đau đầu, mất ngủ. Không nên dùng statin cho bệnh nhân bị bệnh gan đang tiến triển, đau cơ, viêm đa cơ...

Chú ý: hiện nay thuốc liprobay (cerivastatin) đã phải rút khỏi thị trường do tác dụng phụ nguy hiểm gây tiêu cơ vân khi dùng cùng với các fibrat.

- Các dẫn xuất fibrat (acid fibric): Bao gồm gemfibrozil (lopid), clofibrat (lipavlon), fenofibrat (lipanthyl, tricor), bezafibrat (benzalip). Tác dụng phụ có thể gặp là sưng phù mặt, đau bụng, buồn nôn, đau đầu, mẩn ngứa...

- Điều trị thay thế bằng hormon sinh dục nữ (estrogen): Phương pháp này có thể có ích ở phụ nữ sau tuổi mãn kinh có rối loạn lipid máu. Estrogen uống làm giảm LDL-C khoảng 15% và làm tăng HDL-C cũng khoảng 15%.

Đây là thuốc nên chọn lựa đầu tiên cho điều trị phụ nữ sau tuổi mãn kinh có rối loạn lipid máu. Tuy nhiên, thuốc này có thể làm tăng triglycerid đôi chút. Có thể dùng viên uống phối hợp với progestin cho những phụ nữ bị đau bụng kinh.

Kết hợp thuốc

Có thể dùng hai loại thuốc ở hai nhóm khác nhau nếu thấy cần thiết. Việc kết hợp hai loại thuốc với nhau liều thấp sẽ thay thế cho việc dùng một loại với liều cao vì khó dung nạp. Trong một số trường hợp, khi tăng quá cao cholesterol máu nên kết hợp hai loại thuốc. Sự kết hợp tốt nhất là giữa statin và niacin.

Theo dõi khi dùng thuốc

Cần kiểm tra cholesterol và triglycerid máu mỗi 3-4 tuần điều trị. Nếu không đáp ứng sau hai tháng điều trị, mặc dù đã dùng liều tối ưu thì nên thay bằng thuốc khác hoặc kết hợp thuốc thứ hai. Lưu ý là việc điều chỉnh chế độ ăn và luyện tập phải luôn luôn được đảm bảo.

Thuốc tham khảo: Diabetna

Giúp giảm cholesterol và lipit máu. Hỗ trợ cho việc ăn kiêng và giảm béo phì.

Thùy Linh

Nên đọc

0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]