Bệnh thường gặp ở lứa tuổi trẻ trong độ tuổi lao động, nam gặp nhiều hơn nữ, có thể mắc bệnh
cả hai mắt. Việc
chẩn đoán sớm và
điều trị kịp thời là cơ hội tốt nhất để
bảo tồn thị lực cho bệnh
nhân. Tuy nhiên, do tình trạng dân trí chưa cao, chưa ý thức được tính chất nghiêm trọng của bệnh
nên
bệnh nhân thường đến muộn hoặc được điều trị ở các cơ sở y tế không có chuyên khoa mắt làm cho
việc chẩn đoán và điều trị gặp nhiều khó khăn. Hậu quả là, mặc dù được điều trị tích cực nhưng thị
lực vẫn bị giảm rất nhiều, mất chức năng, thậm chí teo nhãn cầu hoặc phải bỏ nhãn cầu.
Viêm mủ nội nhãn có thể do những tác nhân gây bệnh từ bên ngoài như do chấn thương, sau phẫu
thuật (viêm mủ nội nhãn ngoại sinh) hoặc do các tác nhân gây bệnh từ nơi khác đến mắt theo đường
máu gọi là viêm mủ nội nhãn nội sinh.
Biểu hiện của viêm mủ nội nhãn: Có thể đau nhức mắt, thường đau tăng lên khi vận động nhãn cầu,
giảm thị lực, chảy nước mắt, đau đầu, đỏ mắt, sợ ánh sáng. Nếu viêm mủ nội nhãn do vi khuẩn thường
biểu hiện rầm rộ của một tình trạng viêm cấp tính. Bệnh nhân nhức mắt khó chịu, kích thích, đau
tăng lên khi cử động mắt.
Bệnh nhân nhìn mờ nhiều, có thể chỉ còn nhận thức ánh sáng hoặc không;
kèm theo dấu hiệu chói mắt, cộm mắt, trẻ nhỏ thường lấy tay che mắt hoặc quay mặt vào chỗ tối.
Trường hợp viêm mủ nội nhãn do vi khuẩn có độc lực cao hoặc bệnh nhân đến muộn, bệnh có xu hướng
trở thành viêm toàn bộ nhãn cầu (viêm toàn nhãn) - tức là viêm cả tổ chức quanh mắt. Triệu chứng
của viêm mủ nội nhãn do nấm tiến triển thầm lặng hơn so với các triệu chứng của bệnh do vi
khuẩn.
Thăm khám sẽ thấy phù mi mắt, có mủ trong nội nhãn, tăng áp lực ở trong mắt; một số bệnh nhân có
thể bị sụp mi, lồi mắt. Mức độ viêm nhiễm phụ thuộc nhiều vào tác nhân gây bệnh. Mi sưng đỏ, sụp
mi, co quắp mi; đặc biệt trong trường hợp viêm lan tỏa nặng ở phía trước của mắt.
Bệnh nhân có biểu
hiện phù kết mạc hoặc hoại tử kết mạc, giác mạc (tròng trắng và tròng đen của mắt), có ánh mủ vàng
trong mắt khi quan sát qua lỗ đồng tử. Trường hợp viêm nặng ở phần sau của mắt, siêu âm có thể có
bong võng mạc. Kết quả cuối cùng của những mắt này thường là teo nhãn cầu hoặc thậm chí phải bỏ
nhãn cầu cho dù được điều trị tích cực.
Đối với viêm mủ nội nhãn nội sinh, bệnh nhân thường có ổ viêm nhiễm đầu tiên như nhiễm khuẩn tai
- mũi - họng, răng - hàm - mặt, viêm nội tâm mạc, viêm đường tiết niệu...; kèm theo có thể sốt cao,
đau đầu, giảm cân hoặc suy kiệt.
Phương pháp điều trị: Viêm mủ nội nhãn là bệnh tối nguy hiểm trong nhãn khoa,
vì vậy việc điều trị cần được tiến hành ngay khi bệnh nhân nhập viện. Qua nhiều thập kỷ nghiên cứu
về viêm mủ nội nhãn, các tác giả đã đưa ra phác đồ điều trị: tiến hành lấy bệnh phẩm là dịch ở
trong mắt làm xét nghiệm xác định tác nhân gây bệnh, sau đó tiêm
kháng sinh vào trong mắt ngay mà
không chờ kết quả xét nghiệm.
Kháng sinh được lựa chọn là vancomycin 1mg/0,1ml, phối hợp với fortum
2mg/ 0,1ml.
Tiêm mũi thứ hai được đặt ra khi bệnh đáp ứng tồi với điều trị, hai mũi tiêm cách nhau ít nhất
72 giờ. Mũi tiêm thứ hai thường kết hợp với dexamethasone 0,4mg sau khi kết quả loại trừ viêm mủ
nội nhãn do nấm. Nếu do nấm, kháng sinh sử dụng tiêm nội nhãn là amphotericine B. Cắt bỏ khối mủ ở
trong mắt (cắt dịch kính) được đặt ra khi điều trị nội khoa đáp ứng kém. Ngoài ra, sử dụng kháng
sinh phổ rộng, kháng viêm theo đường toàn thân và tra tại mắt kết hợp với thuốc giãn đồng tử.
Viêm mủ nội nhãn đang là một thách thức trong chẩn đoán và điều trị đối với các nhà nhãn khoa.
Việc chẩn đoán sớm và điều trị tích cực đưa đến cơ hội tốt nhất để bảo tồn thị lực cho bệnh nhân.
Vì vậy, bệnh nhân cần được đưa đến cơ sở điều trị nhãn khoa ngay khi có các dấu hiệu của
bệnh.
AloBacsi.vn
Theo TS. Thu Hiền - Sức khỏe & Đời sống