>
>
Dịch truyền được sử dụng để nuôi ăn trong trường hợp
bệnh nhân không thể ăn hoặc hấp thu các chất
dinh dưỡng qua đường tiêu hoá. Việc bù đường, muối và các chất điện giải chỉ nên tiến hành khi hàm lượng những chất này trong máu thấp hơn mức cho phép.
Bác sĩ thường dựa vào kết quả xét nghiệm để quyết định có truyền dịch hay không. Trong một số trường hợp, tuy chưa có kết quả xét nghiệm nhưng thầy thuốc vẫn phải truyền dịch cho bệnh nhân: trước và sau khi phẫu thuật, khi người bệnh bị
mất nước, mất máu, suy dinh dưỡng nặng, ngộ độc…
Các loại dịch truyền
1. Nhóm cung cấp chất dinh dưỡng cho cơ thể, dùng trong các trường hợp suy kiệt, ăn uống kém:
- Dường hay còn gọi là dịch ngọt chứa đường glucoza: Có tác dụng cung cấp năng lượng cho cơ thể. Dung dịch glucoza có nhiều loại: 5% (cứ 100 ml nước thì có 5 g glucoza), 10%, 20%, 30%. Nửa lít glucoza 5% cung cấp năng lượng tương đương ăn một bát cơm.
Được chỉ định truyền khi cơ thể bị hạ đường huyết hoặc nuôi dưỡng qua đường tĩnh mạch đối với các bệnh nhân không hấp thu được thức ăn qua đường miệng. Dịch này có nhiều nồng độ khác nhau tùy theo mục đích sử dụng.
+ Dịch 5% có nồng độ thẩm thấu bằng huyết tương nên có thể bù dịch khi cơ thể bị mất nước hay bệnh nhân không uống được.
+ Nồng độ 20% chứa nhiều glucose hơn, dùng để giải độc và nuôi dưỡng khi bệnh nhân không ăn được bằng miệng.
- Dịch chứa chất đạm, chất béo và vitamin: như Alversin 40, Amino – Plasmal 5%, Nutrisol 5%, Vitaplex, Lipofundin… dùng trong các trường hợp suy kiệt, suy dinh dưỡng. Các sản phẩm này rất đắt tiền.
Đạm hoa quả (Vitaplex):
Thực chất không phải là đạm mà chỉ là các vitamin. Loại này được chỉ định dùng khi cơ thể bệnh có dấu hiệu suy nhược kéo dài hoặc bệnh lý kéo dài, những người bệnh thiếu hụt các vitamin.
Nhiều người lạm dụng loại này để làm đẹp da nhưng thực tế, việc truyền phải được chỉ định của bác sĩ. Nếu tự truyền, cơ thể bị thừa và sẽ đào thải. Tốt nhất là ăn hoa quả tươi hàng ngày để bổ sung lượng vitamin cần cho cơ thể.
Dịch đạm:
Thành phần gồm nước và axit amin, dùng cho bệnh nhân suy kiệt, không ăn uống được. Dịch đạm gồm có nhiều loại như Alvesin, Aminoplasma, Anparen, Biseko… Đạm cung cấp protein cho những trường hợp bệnh suy dinh dưỡng, bệnh nhân bị giảm mức độ protein trong máu, phục hồi sau phẫu thuật, stress. Đạm được bác sĩ chỉ định khi lượng abumin máu và protein máu trong cơ thể bệnh nhân xuống thấp.
Khuyên: Nên bổ sung đạm từ các thực phẩm hàng ngày như thịt, cá, trứng, sữa…
Mỡ (lipid)
Loại này được dùng theo chỉ định, cung cấp các axit béo cho những bệnh nhân sau phẫu thuật, suy dinh dưỡng. Chỉ định truyền loại này rất khắt khe, chỉ áp dụng cho những bệnh nhân ăn uống không đủ chất hoặc cơ thể không hấp thu được lượng mỡ cần thiết, những bệnh nhân suy kiệt.
2. Nhóm cung cấp các chất điện giải, dùng trong trường hợp mất nước, mất máu (tiêu chảy, bỏng). Đó là các dung dịch Lactate Ringer, natri nlorua 0,9%, natri bicarbonate 1,4%…
Muối nước:
Dịch muối 0,9% hay dịch mặn, gồm nước và muối ăn, dùng để bù dịch cho cơ thể khi mất nước. Độ mặn của dịch bằng độ mặn của máu.Hầu như sử dụng trong mọi loại chỉ định đối với tình trạng mất nước của cơ thể như tiêu chảy, bỏng, nôn. Các loại sốt virus kéo dài với biểu hiện lâm sàng điển hình như môi khô, mặt hốc hác. Tuy nhiên, cũng là dấu hiệu sốt nhưng là sốt do nhiễm trùng thì việc tiêm truyền lại không giải quyết được vấn đề.
3. Nhóm đặc biệt như huyết tương tươi, dung dịch chứa albumin, dextran… dùng trong các trường hợp cần bù nhanh chất đạm hoặc lượng dịch tuần hoàn trong cơ thể.
Biến chứng của truyền dịch
Việc dùng dịch truyền bừa bãi có thể ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ:
- Sốc phản vệ do truyền nhanh, áp lực thẩm thấu cao gây biến chứng với biểu hiện vã mồ hôi, chân tay lạnh, mạch nhanh, huyết áp tụt.
- Nhiễm trùng máu.
- Rối loạn điện giải: Khi đưa vào một lượng không cần thiết dẫn đến sự dư thừa khiến người bệnh mệt ỏi, nôn nao, tăng nhịp tim bất thường.
- Thiếu hụt các yếu tố vi lượng: Nếu truyền dịch kéo dài dẫn đến dung mao của ruột thoái hoá khiến thức ăn được hấp thụ kém.
- Phù toàn thân, tràn dịch mảng bụng, phù phổi, suy hô hấp, suy tim (nhất là đối với người vốn có bệnh tim mạch), thậm chí gây tử vong.
- Sưng chỗ kim tiêm hoặc lan toả ra xung quanh khiến vùng da đó bị viêm tấy đỏ, nặng hơn là bị hoại tử nhất là khi truyền dịch cung cấp chất dinh dưỡng.
- Truyền dịch có thể dẫn đến lây nhiễm các bệnh nhiễm trùng như viêm gan siêu vi. Thậm chí, nếu lượng dịch truyền quá nhiều, cơ thể trẻ lại bị mất nước ưu trương, teo tế bào não rất nguy hiểm.
Ngay cả khi truyền dịch đúng chỉ định, bệnh nhân vẫn có thể gặp một số nguy hiểm trong quá trình truyền: chỗ tiêm bị phù, đau sưng, viêm tĩnh mạch, rét run, mặt tái nhợt, vã mồ hôi, khó thở, đau ngực…
Ai nên cẩn thận khi truyền dịch?
- Thận trọng đối với bệnh nhân lớn tuổi, có độ lọc thận yếu, bệnh nhân tim mạch hay có bệnh lý về não khi truyền dịch chứa chất điện giải.
- Đối với trẻ bị sốt không được truyền muối, đường vì những chất này đi vào cơ thể sẽ làm tăng áp lực lên sọ, tăng phù não.
- Bệnh nhi viêm phổi không nên truyền dịch vì dịch truyền làm tăng gánh nặng cho phổi, tim.
- Số do nhiễm trùng không nên truyền dịch vì không có tác dụng mà dễ gây các nguy cơ biến chứng khác.
- Đối với bệnh nhi viêm não, viêm màng não, cơ chế chọn dịch truyền phải theo địa chỉ của bác sĩ.
Khi nào truyền loại nào?
- Khi bệnh tiêu chảy: Dùng loại dịch truyền cung cấp các chất điện giải. Khi được truyền vào tĩnh mạch, các dung dịch muối khoáng có tác dụng bù nhanh chóng lượng nước đã mất khi bệnh nhân bị đi lỏng hoặc nôn mửa, đồng thời cung cấp các chất muối khoáng dưới dạng các ion như natri, kali, canxi, clo.
Lưu ý: Truyền dung dịch natri clorua 0,9% cho người tiêu chảy cần tuân thủ những yêu cầu nhất định: Không nên để nhỏ giọt quá nhanh bởi có thể gây biến chứng ứ nước ngoài tế bào, gây ra phù phổi cấp; đồng thời có thể gây ra hiện tượng axit máu do truyền một lượng ion clo quá mức.
- Người bị bỏng nặng hoặc mất máu nhiều: ”Dùng các loại dịch truyền ưu trương – chủ yếu để bù đắp một lượng ion clo. Cách và liều lượng sử dụng do bác sĩ quyết định tùy theo tình trạng bệnh tật cụ thể của từng người.
Theo Đẹp