Thời gian tác dụng phụ thuộc vào liều. Sau một liều bình thường,
tác dụng thường duy trì ít nhất 12 giờ. Trong điều trị tăng huyết áp, đáp ứng điều trị tối đa đạt
được sau 4 tuần điều trị. Việc giảm phì đại thất trái đạt được sau 2 - 3 tháng dùng captopril.
Tác
dụng hạ huyết áp không phụ thuộc vào tư thế đứng hay nằm. Hạ huyết áp tư thế (hạ huyết áp thế đứng)
thường ít gặp, nhưng có thể xảy ra, đặc biệt ở người có thể tích máu giảm. Ngoài điều trị tăng
huyết áp thuốc còn được dùng để điều trị suy tim và nhồi máu cơ tim.
Thuốc được uống trước bữa ăn 1
giờ. Liều lượng và số lần dùng thuốc bệnh nhân cần tuân thủ theo chỉ định của thầy thuốc chuyên
khoa.
Dùng thuốc điều trị tăng huyết áp cần theo dõi các tác dụng
phụ.
Khi dùng thuốc này cần thận trọng ở người có suy giảm chức năng
thận, người bệnh mất nước và/hoặc điều trị thuốc lợi tiểu mạnh vì có nguy cơ hạ huyết áp nặng.
Bản
thân captopril có thể gây tăng nhẹ kali huyết, vì vậy không kết hợp với các thuốc lợi tiểu giữ kali
như spironolacton, triamteren, amilorid trong điều trị tăng huyết áp và thận trọng khi dùng các
muối có chứa kali (vì có thể gây tăng kali gây ra bất lợi trong điều trị).
Không được dùng thuốc này trong thời kỳ mang thai vì có thể dẫn đến
thương tổn cho thai nhi và trẻ sơ sinh như hạ huyết áp, giảm sản sọ sơ sinh, vô niệu, chậm phát
triển thai, đẻ non và còn ống động mạch đã xảy ra. Captopril bài tiết vào sữa mẹ, gây nhiều tác
dụng có hại cho trẻ bú sữa mẹ, vì vậy không được dùng captopril đối với người cho con bú.
Trong điều trị tăng huyết áp đôi khi phải dùng phối hợp hai loại
thuốc trở lên hoặc với người mắc nhiều bệnh mạn tính cùng lúc thì cũng phải dùng đồng thời nhiều
loại thuốc, cần tránh sự tương tác bất lợi giữa các thuốc điều trị bệnh với nhau. Cụ thể, cần tránh
dùng đồng thời với thuốc lợi tiểu furosemid vì dễ gây ra tác dụng hiệp đồng hạ huyết áp. Dùng đồng
thời captopril với các chất chống viêm không steroid (đặc biệt indomethacin) làm giảm tác dụng hạ
huyết áp của captopril.
Một số tác dụng phụ không mong muốn thường gặp khi dùng thuốc này
là chóng mặt và ngoại ban, ho. Các phản ứng này thường phụ thuộc vào liều dùng và liên quan đến
những yếu tố biến chứng như suy thận, bệnh mô liên kết ở mạch máu. Ngoài ra, thuốc còn gây viêm
miệng, viêm dạ dày, đau bụng, đau thượng vị và thay đổi vị giác (thay đổi vị giác thường mất đi
trong vòng 2-3 tháng điều trị).
Người bệnh cần lưu ý phát hiện những bất thường này có thể xảy ra
với mình trong quá trình dùng thuốc, kịp thời báo cho bác sĩ biết để có cách xử trí kịp thời.
Theo DS. Hoàng Thu Thủy - Sức khỏe và Đời sống