Không phải ai sinh ra cũng may mắn là nam hay nữ hoàn toàn, và khi trưởng thành chỉ hướng tới đối tượng khác phái. Có ít nhất 5% nhân loại phải chịu thiệt thòi vì không giống với 95% còn lại. Nhận dạng và thông hiểu được 5% này cũng không phải dễ dàng.
Sự phức tạp của giới tính không phải ai
cũng hiểu.
Ba kiểu giới tính bình thường về sinh học
Bất kỳ tế bào nào của cơ thể loài người cũng đều có 44 nhiễm sắc thể thường và một cặp nhiễm sắc thể giới tính. Ở nữ, đó là hai nhiễm sắc thể X và X giống nhau, còn ở nam là hai nhiễm sắc thể X và Y khác nhau. Đôi nhiễm sắc thể giới tính này quyết định những khác biệt giới tính giữa hai phái, trong đó có bộ sinh dục ngoài. Não có một vùng đặc biệt gọi là hạ đồi, tiết ra nội tiết tố có tác dụng kích thích tinh hoàn hay buồng trứng sản xuất ra nội tiết tố giới tính. Trong não còn có trung tâm xác định đối tượng tình dục. Nếu nó bị trục trặc thì có thể sinh ra cảnh nam yêu nam và nữ yêu nữ.
Để dễ hình dung, có thể phân chia giới tính thành ba kiểu (các trường hợp này không bị xem là bệnh), dựa theo khuynh hướng tình dục như sau:
* Dị giới tính luyến ái (heterosexuality): Đó là đa số nhân loại. Nếu là nam, họ sẽ có cặp nhiễm sắc thể XY trong tế bào và chỉ yêu người khác phái, là người có cặp nhiễm sắc thể XX mà thôi.
* Đồng tính luyến ái (homosexuality): Về mặt sinh học, những người đồng tính luyến ái hoàn toàn bình thường. Nam giới bị “pê-đê” không phải do thiếu nội tiết tố sinh dục nam testosterone. Do đó, họ không cần thử máu để biết nồng độ testosterone có bình thường không, cũng chẳng cần phải điều trị bằng testosterone uống hay chích vì chỉ vô bổ, có hại mà thôi.
Ảnh minh họa. Nguồn: prefmag.com
Khoa học chưa rõ vì sao trung tâm não nhận diện đối tượng tình dục của những người này lại chỉ có hình ảnh của người cùng phái. Có phải do rối loạn nhiễm sắc thể hay không? Có phải do thiếu testosterone khi còn trong bào thai hay không? Những giả thuyết này chưa ai chứng minh được. Giả thuyết cho đồng tính luyến ái là vì hồi nhỏ những đứa trẻ đó được cha mẹ cho mặc đồ con gái là không có cơ sở. Nữ giới cũng có đồng tính luyến ái nhưng ít gặp hơn nam.
Dò theo bảng DSM (Diagnostic and Statistical Manual of Mental Disorders) của Hội Tâm Thần Hoa Kỳ, trước đây đồng tính luyến ái được xếp vô nhóm “lệch lạc tình dục” và cần chữa trị. Tới năm 1973, nó lại được sửa đổi, xếp vô nhóm “rối loạn định hướng tình dục”. Mười năm sau nữa, người ta lại chia đồng tính luyến ái thành hai nhóm: nhóm hài-lòng-với-chính-mình và nhóm không-hài-lòng-với-chính-mình. Người ta cho rằng có thể chữa trị cho nhóm không-hài-lòng-với-chính-mình để họ trở nên yêu người khác giới được. Tuy nhiên, sau đó, các nhà khoa học nhận thấy họ lầm, nên kể từ năm 1994, đồng tính luyến ái không còn bị coi là bệnh nữa, không có tên trong bảng DSM nữa song không thể chữa gì được, có chăng là hỗ trợ tâm lý để họ yêu đời.
* Lưỡng tính luyến ái (bisexuality): Nhắc tới đồng tính luyến ái thì không thể không nhắc tới Alfred Kinsey, người đã đưa ra thang chia mức độ giới tính luyến ái, đi từ dị giới tính tới đồng tính luyến ái, mà nằm giữa hai thái cực là những người lưỡng tính luyến ái. May mắn hơn những người đồng tính luyến ái, những người lưỡng tính luyến ái vẫn có thể “che mắt” thiên hạ được bằng cách có chồng (vợ), có con nhưng vẫn có… bồ cùng giới. Tuy nhiên, thà rằng biết mình đồng tính tuyệt đối thì đỡ rắc rối ngay từ đầu. Có những người lưỡng tính luyến ái, sau một thời gian có vợ có con lại bỗng hiểu ra mình chỉ có thể quan hệ đồng tính. Họ đành “dứt áo” ra đi, bỏ vợ bỏ con, đi theo một chàng nào đó.
Bốn kiểu được xem có bệnh về tâm thần hay cơ thể
* Những người giả trang (transvestism): Họ là những người nam mà thích ăn mặc, trang điểm như nữ. Họ là những người mà ta hay gặp ngoài đời nhất, những người bị gọi là “pê-đê”. Một số người giả trang cũng là đồng tính luyến ái, nhưng có nhiều người vẫn dị giới tính luyến ái, có vợ có con như mọi người.
* Chuyển giới tính (transsexualism): Chuyển giới tính nam-thành-nữ (male-to-female) là khi một người là nam hoàn toàn về mặt sinh học lại cho rằng mình là nữ, hay hồn nữ mà xác nam nên muốn chuyển cơ thể thành nữ. Tương tự đối với chuyển giới tính nữ-thành-nam (female-to-male).
 Biểu hiện bên ngoài không xác định
được giới tính của người đó.
Nếu người đồng tính luyến ái khổ một, thì người chuyển giới tính khổ mười. Cái khổ đó đeo đẳng họ suốt đời, từ lúc ba-bốn tuổi cho mãi tới già vì họ cứ phải chấp nhận một cơ thể của giới tính khác. Việc chuyển giới tính đã được luật pháp một số nước cho phép như các xứ Bắc Âu. Không nên hiểu chuyển giới tính chỉ là phẫu thuật, bác sĩ chỉ cần lia dao mổ vài đường là xong, mà thật ra phẫu thuật chỉ là một công đoạn trong cả chu trình điều trị tâm lý, nội tiết suốt đời.
* Lưỡng tính (hermaphroditism): Đây là một loại bệnh cực kỳ hiếm gặp mà tuyến sinh dục của họ vừa có mô của tinh hoàn vừa có mô của buồng trứng, và không bao giờ có người nào là lưỡng tính thật sự, tức là có thể tự một mình mà có con được, như xảy ra ở một số động vật cấp thấp. Những người này chẳng thể sinh con được và chưa có phương pháp điều trị nào giúp trị được bệnh trên
* Bất thường về cơ quan sinh dục bên ngoài: Thường dương vật của bé trai quá nhỏ, dị dạng, cong quặp (bệnh hypospadias) nên nếu hai “trứng” của bé mà lặn mất đâu đó trong bụng thì bé dễ bị nhận dạng lầm là gái. Bất thường này nếu được phẫu thuật bởi những thầy thuốc lành nghề có thể giúp bệnh nhân xóa đi mặc cảm bất thường cơ thể, sống bình thường như mọi người.
Bất thường về cơ quan sinh dục có khi lại là biểu hiện của bệnh lưỡng tính giả (pseudo-hermaphrodism). Gọi là giả vì hình dạng bên ngoài và cơ quan sinh dục ngoài tuy là nữ, nhưng bộ nhiễm sắc thể giới tính lại là nam, tức là XY. Hoặc, hình dạng bên ngoài là nam, nhưng bộ nhiễm sắc thể lại là nữ, tức XX. Mọi cái rắc rối là do testosterone, hoặc nó không chịu phát huy tác dụng ở bào thai nam nên thai bị nữ hoá, hoặc do nó lại quá thừa ở bào thai nữ nên thai bị nam hoá. Không có công thức chung trong điều trị những người này.
Tùy theo sự phát triển của cơ quan sinh dục theo hướng nam nhiều hơn hay hướng nữ nhiều hơn, tùy theo họ được nuôi dưỡng như nam hay nữ, tùy theo bản thân họ nhìn nhận họ là nam hay nữ, tùy theo mức độ khó dễ của phẫu thuật tạo hình cơ quan sinh dục mà từng trường hợp cụ thể sẽ được điều trị thành nam hay nữ. Chỉnh giới tính (chứ không phải chuyển giới tính) trong trường hợp này rất tế nhị, nhiều thầy thuốc khuyên nên làm sớm trước khi dậy thì để tránh nhiều rắc rối về sau do tại cái chữ lót “thị” và “văn” gây ra.
Tại Việt Nam, phẫu thuật điều trị dị dạng dương vật trong bệnh hypospadias vẫn được thực hiện thường xuyên tại các Khoa Tiết niệu và Phẫu thuật Nhi của các bệnh viện. Phẫu thuật chỉnh giới tính bộ sinh dục cho các trường hợp lưỡng tính giả cũng đã được thực hiện tại Bệnh viện Bình Dân và nơi khác. Riêng phẫu thuật chuyển giới tính hẳn từ một người này sang một người khác có lẽ tại Việt Nam chưa có trường hợp nào vì chưa có cơ sở pháp lý và chưa có một đội ngũ chuyên viên thích hợp.
Tóm lại, xác định giới tính đối với đa số người là chuyện hiển nhiên, nhưng với một số người lại là chuyện nan giải. Có lẽ một ngày nào đó, y học sẽ hiểu được vì sao lại có những “bất thường” về giới tính ở một số người. Từ đó, có biện pháp ngăn ngừa, để ai sinh ra cũng chỉ là nam hoặc nữ. Trong lúc chờ đợi, một sự thông cảm của xã hội có thể giúp những người đồng tính luyến ái, những người chuyển giới tính có được một cuộc sống nhẹ nhàng hơn.
TS.BS Nguyễn Thành Như