Theo các thầy thuốc, vỏ cây duối chứa các chất asperosid, streblosid
và một pregnan glycosid. Ngoài ra còn có n-triacontan, tetracontan-3-on, β-sitosterol,
stigmasterol, betulin và acid oleanolic. Chất streblosid có thể so sánh với digitoxin. Chất đắng
của vỏ duối có tác dụng đối với cơ tim tương tự adrenalin. Vỏ rễ duối cũng chứa glycosid có tác
dụng trợ tim…Gần đây, một nhóm các nhà nghiên cứu từ Trường Đại học Khoa học Malaysia (USM) đã
nghiên cứu thành công nước súc miệng không cồn từ rễ cây duối giúp làm sạch và ngăn ngừa ung thư
miệng.
Theo Đông y, duối có vị đắng, chát, tính mát, có tác dụng thanh
nhiệt, giải độc, thông huyết, cầm máu và sát khuẩn. Nhiều nơi đã sử dụng cây duối để chữa các bệnh
giun chỉ, hủi, đau răng, tiêu chảy, ung thư, nhiễm khuẩn đường tai mũi họng.
Vỏ duối dùng chữa bệnh
phong thấp đau nhức, sâu răng, đau bụng, sốt, tiêu chảy, lỵ, đắp bó chữa gẫy xương. Cành và rễ duối
thái mỏng sắc uống làm thuốc thông tiểu, chữa bụng trướng. Vỏ rễ chữa đái đục, bí đái, bệnh giang
mai và trị rắn cắn. Liều dùng 12-20g. Thuốc đắp từ rễ duối trị loét, sưng tấy và mụn nhọt có mủ.
Nhựa mủ duối có tác dụng sát khuẩn; tẩm vào giấy bản rồi dán hai bên thái dương để chữa nhức đầu,
hoặc dùng đắp chỗ nứt nẻ ở tay và gót chân. Trong dân gian, người ta còn dùng chữa đinh nhọt, chốc
lở…
Dưới đây là các ứng dụng khác của cây duối:
- Chữa băng huyết, kiết lỵ, lợi sữa: Lá duối (20 g) sao vàng sắc
uống.
- Chữa đái rắt, đái buốt, nước đái đục: Vỏ rễ duối, rễ nhót, mỗi vị
20g, sao vàng, sắc uống.
- Chữa sâu răng: Vỏ duối sắc đặc ngậm. Hoặc vỏ duối, củ gấu, hai vị
bằng nhau, ngâm rượu 700 trong 1-2 tuần. Sau đó tẩm vào bông rồi đặt vào chỗ sưng, đau.
- Chữa gãy xương: Vỏ duối giã nhỏ với lá thanh táo, dây tơ hồng và
chuối tiêu, đắp bó nên ngoài nơi gãy xương.
AloBacsi.vn
Theo BS Mỹ Nữ - Nông Nghiệp Việt Nam