Chóng mặt là một cảm giác sai sự di chuyển của cơ thể so với
không gian hoặc của không gian so với cơ thể. Người
bệnh cảm thấy mọi vật chao
đảo xung quanh mình, có lúc thấy nhà cửa đu đưa, mặt đất dập dềnh;
chóng mặt
tăng khi thay đổi
tư thế hoặc khi quay đầu. Trong một số trường hợp, chóng mặt
kèm theo buồn nôn hoặc nôn, vã mồ hôi, tim đập nhanh, hồi hộp, sợ hãi. Cơn
chóng mặt xảy ra đột ngột nhưng chấm dứt cũng rất nhanh, chỉ trong vài giây để
rồi xuất hiện trở lại.
Nguyên nhân gây chóng mặt
Có rất nhiều nguyên nhân gây chóng mặt, nhưng có một số
nguyên nhân chính sau: Do chấn thương (va chạm, ngã, đụng giập, tai nạn giao
thông...) gây ra chấn động tai trong; nhiễm độc (rượu, oxid carbon); Dùng một
số thuốc có ảnh hưởng đến tai trong (tiền đình); Viêm tai giữa, xương chũm,
viêm màng não; Rối loạn điều hành tuần hoàn ở trong tai, huyết áp dao động; Do
ống tai ngoài bị bít (vật lạ, nút ráy tai...); Do tổn thương trong não. Do
nguyên nhân rất phức tạp nên cần phải có sự phối hợp khám của nhiều chuyên khoa
như tai - mũi - họng, nội khoa, thần kinh, mắt, Xquang và làm một số xét nghiệm
khác.
Chóng mặt ở tư thế kịch phát là loại chóng mặt
thường gặp nhất. |
Những loại chóng mặt hay gặp
Chóng mặt tư thế kịch phát lành tính: Loại này xuất hiện đột
ngột, khi thay đổi tư thế, không có dấu hiệu báo trước, không có bệnh gì rõ
rệt. Chóng mặt kéo dài vài giây, xuất hiện sau khi cử động đầu. Khi đang nằm,
đầu nghiêng trên gối quay sang phải hay trái, hoặc quay cả người, hoặc đang
ngồi mà nghiêng đột ngột sang một bên thấy chóng mặt dữ dội. Thường cơn chóng
mặt xuất hiện theo một tư thế nhất định hoặc theo một bên nhất định (bên phải
hoặc bên trái). Chóng mặt tư thế kịch phát lành tính chiếm khoảng 30% các
trường hợp chóng mặt.
Bệnh Meniere (bệnh ứ nước nội dịch vô căn): Bệnh được đặc
trưng bởi cơn chóng mặt kéo dài khoảng 5 phút đến 5 giờ. Trước khi chóng mặt,
người bệnh có cảm giác giảm thính lực và ù tai. Chóng mặt xuất hiện đột ngột
kèm theo buồn nôn và nôn, cơn có thể tái phát dẫn đến mất dần thính lực. Bệnh
hay gặp ở người căng thẳng tâm lý và lo lắng. Nguyên nhân là do mất thăng bằng
của áp lực dịch chứa trong tai trong.
Viêm dây thần kinh tiền đình: Viêm dây thần kinh do virut
zona, thủy đậu, quai bị (chiếm khoảng 5% các trường hợp) gây liệt dây thần kinh
tiền đình dẫn đến chóng mặt xuất hiện đột ngột, kéo dài nhiều giờ đến vài tháng
nhưng không rối loạn thính lực (khác với hội chứng Meniere). Dấu hiệu Nystagmus
(rung giật nhãn cầu) đánh ngang về bên lành. Bệnh có thể tự khỏi không cần điều
trị, dần dần hệ thống thần kinh trung ương sẽ bù lại sự thiếu sót này và hình
thành tình trạng điều hòa mới. Điều trị các thuốc “kích thích não bộ” và tập
phục hồi chức năng sớm dẫn đến hồi phục tốt hơn.
Ngoài ra, viêm tai giữa cấp và mạn, dị dạng tai trong; chấn
thương hoặc tiền sử phẫu thuật; u dây thần kinh tiền đình - ốc tai; rối loạn
thị giác: loạn thị, cận thị, viễn thị...; do dùng thuốc; do dùng rượu, ma túy;
say tàu xe... cũng gây chóng mặt.
Cách xử trí
Người bệnh cần tránh các hoạt động mạnh, thay đổi đột ngột;
tránh đi lại trên cao, cheo leo, tránh gần các vật chuyển động nhanh như ôtô...
Tránh các yếu tố gây kích động tâm lý, thần kinh. Khi đang cơn, người bệnh cần
nghỉ ngơi ở nơi yên tĩnh, ít ánh sáng, nằm nghiêng về phía không gây cơn. Tùy
từng nguyên nhân chóng mặt mà có các phương pháp điều trị khác nhau: Điều trị
bằng kháng sinh nếu do viêm tai giữa; Điều trị kháng sinh kháng virut nếu do
zona; Điều trị ngoại khoa cắt bỏ khối u; Điều trị phục hồi chức năng phối hợp:
Trong trường hợp chóng mặt do viêm dây thần kinh tiền đình hoặc chóng mặt tư
thế lành tính kịch phát, ngoài điều trị bằng thuốc, nên điều trị phục hồi chức
năng để giảm nhanh hơn triệu chứng chóng mặt.
Bài tập rèn luyện cho tiền đình chịu đựng các thay đổi tư thế
thực hiện như sau: người bệnh ngồi trên mép giường, nhắm mắt thả duỗi, rồi dần
dần nghiêng đầu về một bên cho đến khi đầu nằm ngang trên giường. Giữ tư thế
này ít nhất 30 giây, trả đầu về tư thế cũ, lại ngồi yên trong 30 giây, tiếp tục
làm động tác nghiêng đầu về phía đối diện. Lần đầu tập chỉ làm 3-4 động tác,
sau đó tăng làm mỗi buổi tập 5-7 lần. Mỗi ngày tập 2 buổi, vào sáng sớm hoặc
tối trước khi ngủ, kiên trì tập trong 4-5 tuần hoặc dài ngày hơn. Cách rèn
luyện nêu trên đã được ứng dụng ở nhiều nước trên thế giới và mang lại kết quả
tốt trong 80% các trường hợp.
BS. nguyễn Hồng Anh