Amiodaron, bretylium và sotalol là 3 thuốc chủ yếu của các thuốc chống loạn nhịp tim nhóm III. Các thuốc chống loạn nhịp nhóm III đều có cơ chế tác dụng chống loạn nhịp thông qua kéo dài thời gian của điện thế hoạt động tế bào, làm kéo dài thời kỳ trơ có hiệu lực. Do đó, làm giảm tính kích thích của tế bào, đồng thời cũng làm giảm tính tự động của nút xoang. Trong các thuốc nhóm III, amiodaron được dùng phổ biến nhất, có thời gian bán thải dài (từ 13 - 52 ngày, tùy thời gian sử dụng thuốc). Hiệu quả trên cả loạn nhịp thất và trên thất. Tuy nhiên, thuốc có thể gây ra rất nhiều các phản ứng phụ, thậm chí nghiêm trọng, do vậy, cần hết sức thận trọng khi chỉ định.
Các phản ứng có hại của thuốc chống loạn nhịp nhóm III
Amiodaron: Mặc dù là loại thuốc chống loạn nhịp có hiệu quả tốt nhưng việc sử dụng
amiodaron bị hạn chế do có nhiều tác dụng phụ. Amiodaron hay gây nên các tác dụng phụ hơn các thuốc
nhóm III khác và các thuốc khác nói chung. Có khoảng 15-30% bệnh nhân dùng amiodaron bị phản ứng
phụ với các mức độ khác nhau, trong đó có tới 3-10% các bệnh nhân buộc phải dừng thuốc. Các tác
dụng phụ chủ yếu của amiodaron liên quan đến liều dùng và thời gian dùng thuốc, do đó, nó dễ xảy ra
sau khi điều trị kéo dài và/hoặc liều cao.
Các tác dụng phụ trên tim: Tác dụng phụ đầu tiên cần hết sức lưu ý là làm chậm nhịp
tim, nhất là khi kết hợp với các thuốc khác cũng có tác dụng làm chậm nhịp. Một số bệnh nhân (nhất
là các bệnh nhân suy chức năng nút xoang) có thể xảy ra nhịp rất chậm, có thể nguy hiểm đến tính
mạng. Do đó, cần hết sức lưu ý các chống chỉ định của thuốc, không bao giờ nên tự ý dùng thuốc.
Ngoài ra, thuốc cũng có thể làm nặng nề thêm các loại loạn nhịp hoặc xuất hiện loạn nhịp mới. Đây
là điều có vẻ như nghịch lý, nhưng lại là điều hoàn toàn có thể xảy ra, tức là thuốc chống loạn
nhịp nhưng lại gây loạn nhịp.
Các tác dụng phụ trên tuyến giáp: Do trong cấu trúc phân tử amiodaron có chứa iode nên
không những gây tác dụng phụ trên tuyến giáp mà còn làm sai lệch các kết quả xét nghiệm về chức
năng tuyến giáp. Do vậy, trước khi dùng, phải kiểm tra kỹ chức năng tuyến giáp. Thuốc có thể gây
thiểu năng hoặc cường năng tuyến giáp, thường bắt đầu thấy các triệu chứng rõ rệt sau 2 - 3 tháng
dùng thuốc.
Các tác dụng phụ trên phổi: Nếu bệnh nhân đang sử dụng thuốc mà xuất hiện dấu hiệu khó
thở, ho khan kéo theo mệt mỏi, suy nhược toàn thân thì phải chú ý kiểm tra phổi, thuốc có thể gây
viêm phổi kẽ, viêm phổi quá mẫn, xơ phổi.
Tác dụng phụ trên da: Quá mẫn với ánh sáng là một tác dụng phụ trên da hay gặp nhất.
Dùng amiodaron lâu ngày làm da đổi thành màu xanh xám, tình trạng này hay gặp hơn ở người có nước
da trắng hoặc những người thường xuyên tiếp xúc với ánh nắng mà không có biện pháp bảo vệ.
Tác dụng phụ trên mắt: Rối loạn thị giác, gồm nhìn quầng, nhìn lóa, sợ ánh sáng và khô
mắt xảy ra ở khoảng 10% số bệnh nhân. Lắng đọng giác mạc không triệu chứng (lắng đọng vi thể) xảy
ra ở gần như tất cả các bệnh nhân sau khi dùng amiodaron khoảng 6 tháng.
Một số tác dụng phụ khác cũng có thể gặp như tăng men gan, chán ăn, buồn nôn... nhưng tần suất
ít hơn và thường rất nhẹ.
Nhịp tim bình
thường.Nhịp
tim bị rối loạn
|
Các thuốc khác, hiện ít dùng hơn nhiều so với amiodaron
Sotalol: đây thực chất là thuốc ức chế thụ thể beta (thuốc chống loạn nhịp nhóm II, tuy
nhiên, do cơ chế tác dụng của thuốc cũng giống các thuốc nhóm III nên vẫn được xếp vào nhóm này),
do vậy, khi dùng thuốc phải lưu ý rất nhiều chống chỉ định của nhóm thuốc ức chế thụ thể beta. Các
tác dụng phụ hay gặp nhất có thể dẫn đến phải ngừng sotalol, gồm: mệt mỏi, nhịp tim chậm, suy
nhược, tiêu chảy, chóng mặt.
Những bệnh nhân bị bệnh phế quản co thắt từ trước có nguy cơ cao bị
hen, rối loạn nhịp thở hoặc co thắt phế quản nặng thêm do sotalol ức chế các catecholamin nội sinh,
là chất gây co thắt phế quản thông qua tác dụng đối kháng beta. Cả tǎng và hạ đường huyết đều có
thể xảy ra khi dùng sotalol. Sotalol có thể can thiệp vào quá trình phân giải glycogen gây tǎng
đường huyết và thuốc cũng có thể che khuất các triệu chứng của hạ đường huyết. Cần thận trọng khi
dùng sotalol ở những bệnh nhân đái tháo đường không ổn định.
Bretylium: Bretylium không có hiệu quả trong điều trị loạn nhịp trên thất nhưng có
hiệu quả trong điều trị rung thất khi phối hợp với khử rung. Bretylium có tác dụng chống rung thất
do làm tăng cao ngưỡng rung thất. Thuốc có tác dụng ức chế giao cảm nên gây hạ huyết áp, vì vậy, ở
các bệnh nhân đang sử dụng các thuốc hạ áp, phải hết sức lưu ý, tránh để tụt huyết áp quá mức, đặc
biệt tụt huyết áp tư thế đứng, nhất là ở các bệnh nhân cao tuổi.
Một tác dụng phụ khác cũng hay gặp
là các rối loạn tiêu hóa (như buồn nôn, nôn, tiêu chảy...). Cuối cùng là tác dụng phụ trên nhịp
tim: thuốc có thể gây nhịp chậm do ức chế hoạt tính giao cảm, tác dụng phụ này đôi khi rất nguy
hiểm, nhất là trên những bệnh nhân lớn
tuổi.
AloBacsi.vn
Theo TS. Nguyễn Đức Hải - Sức khỏe & Đời sống