Trẻ không sử dụng được
ngôn ngữ trong sinh hoạt xã hội, không thông hiểu các hình ảnh kí hiệu và không
biết chơi các trò cần sức tưởng tượng. Trẻ cũng có hành vi lặp đi lặp lại và
nhạy cảm giác quan. Những trẻ này có khuynh hướng khó khăn trong học tập và
nhiều trẻ bị khiếm khuyết về trí tuệ.
>>
Tự
kỷ (tiếng Anh là Autism) là một bệnh rối loạn phát triển của hệ thần kinh, biểu
hiện của rối loạn tâm thần. Những trẻ tự kỉ thiếu hay chậm phát triển về khả năng
liên hệ qua lại trong xã hội, không sử dụng được ngôn ngữ trong sinh hoạt xã
hội, không thông hiểu các hình ảnh kí hiệu và không biết chơi các trò cần sức
tưởng tượng. Trẻ cũng có hành vi lặp đi lặp lại và nhạy cảm giác quan. Những
trẻ này có khuynh hướng khó khăn trong học tập và nhiều trẻ bị khiếm khuyết về
trí tuệ.
Khiếm khuyết về mặt quan
hệ xã hội
Đây
là đặc điểm trung tâm của bệnh tự kỷ. Trẻ mắc bệnh tự kỷ có khuynh hướng tránh
tiếp xúc và ít biểu lộ sự lưu tâm đến giọng nói của người khác. Chúng không
thay đổi tư thế hoặc không giơ tay khi sắp được bồng bế như trẻ bình thường.
Biểu hiện cảm xúc thường thờ ơ, vẻ mặt không diễn cảm.
Ở
trẻ tự kỷ có trí tuệ khá, dấu hiệu khiếm khuyết quan hệ xã hội có thể không rõ
rệt cho đến năm 2 tuổi. Lúc nhỏ, trẻ có thể tránh tiếp xúc bằng mắt (eye
contact), nhưng có thể chấp nhận nếu được vuốt ve và đặt ngồi trong lòng mẹ.
Tuy nhiên, trẻ thường không phát triển hành vi gắn bó, không “theo đuôi” bố mẹ
trong nhà như những trẻ bình thường khác.
Hầu
hết trẻ tự kỷ không sợ người lạ, không lo âu khi chia lìa bố mẹ. Không chơi
chung với trẻ cùng tuổi và chủ động tránh những trẻ này. Khi lớn lên, trẻ có
thể phát triển khả năng gắn bó với cha mẹ và những người lớn khác. Một số trẻ
có thể chơi chung với bạn hoặc tham gia một số trò chơi vận động thể lực. Tuy
nhiên, trẻ vẫn khiếm khuyết về mặt xã hội. Trẻ thường ít quan tâm đến trò chơi
nhóm và không thiết lập được quan hệ với bạn cùng tuổi.
Gặp khó khăn trong giao
tiếp ngôn ngữ
Khiếm
khuyết giao tiếp phi ngôn ngữ: Lúc nhỏ, trẻ tự kỷ thường biểu lộ nhu cầu qua
tiếng khóc. Lớn lên, trẻ biểu lộ ý muốn bằng cách kéo tay người lớn đến vật
mong muốn. Thường khi đó, trẻ không diễn cảm qua nét mặt. Tuy nhiên, trẻ không
biết chỉ tay, không biết gật đầu, lắc đầu. Bé cũng không tham gia các trò chơi
bắt chước, không có khả năng bắt chước làm theo những việc làm của bố mẹ như
những trẻ bình thường vẫn làm. Đặc biệt, bé không hiểu được ý nghĩa của những
cử chỉ, điệu bộ của người lớn.
Khi
lớn lên, đôi khi trẻ có thể sử dụng và có khi hiểu được cử chỉ điệu bộ của
người lớn. Một số trẻ đạt đến khả năng chơi bắt chước, nhưng cách chơi thường
vẫn có tính rập khuôn và lặp đi lặp lại.
Nói
chung, trẻ tự kỷ vẫn có thể biểu lộ cảm xúc vui, sợ, giận dữ… nhưng cách thể
hiện có khuynh hướng cực đoan. Nét mặt thường không diễn tả ý nghĩa. Một số trẻ
hầu như thể hiện nét mặt vô cảm.
Không
hiểu lời nói của người khác: Biểu hiện này có thể diễn biến từ nhẹ đến mức độ
chẳng bao giờ hiểu được lời nói. Ở mức độ nhẹ, trẻ có thể tuân theo những chỉ
dẫn đơn giản, nếu chỉ dẫn được đưa ra đúng bối cảnh tức thời, hoặc có kèm theo
những cử chỉ, điệu bộ minh họa tương ứng.
Trẻ
bị khiếm khuyết, khả năng hiểu những ý nghĩa trừu tượng và tinh tế, tính hài
hước và diễn đạt thành ngữ cũng bị nhầm lẫn ngay cả ở những trẻ tự kỷ thông
minh nhất.
Khiếm
khuyết về phát triển lời nói: Nhiều trẻ tự kỷ ít bập bẹ trong năm đầu tiên.
Nhiều trẻ gần như câm nín cho đến 5 tuổi. Khoảng 1/2 trẻ tự kỷ sẽ bị câm nín
suốt đời.
Nếu
trẻ phát triển lời nói, thường lời nói cũng sẽ có bất thường. Nhiều trẻ nói vô
nghĩa, nói vẹt. Trẻ có thể nhại lại lời nói của người khác một cách chính xác,
nhưng thường ít hoặc chẳng hiểu được ý nghĩa của chúng. Nhại lời, có thể khiến
câu cú bị méo mó và rời rạc. Một số trẻ có thể sao lại chính xác những cụm từ
của người khác nói, đôi khi nhại đúng cả âm sắc giọng nói.
Trong
giai đoạn đầu của sự phát triển ngôn ngữ, trẻ có thể có hiện tượng hoán đổi đại
từ nhân xưng. Giọng nói có thể giống robot, đặc trưng bởi sự đơn điệu, phẳng
lặng, không thay đổi, ít nhấn giọng và không diễn cảm.
Một
số trẻ nói với mục đích “tự kích thích”, lời nói có tính chất lặp đi, lặp lại,
không liên quan đến những việc thực sự đang diễn ra xung quanh. Trẻ nhỏ có thể
gặp các vấn đề về phát âm, khi lớn lên tình trạng này có thể giảm.
Đối
lập với khả năng nhại lời chính xác, những lời nói tự nhiên của trẻ lại có nội
dung rất nghèo nàn, vốn từ ít ỏi. Bé có thể dùng kiểu nói như đang hát, kéo dài
một số âm hoặc từ nào đó trong câu. Câu nói thường được kết thúc kiểu câu hỏi
(lên giọng ở cuối câu). Cấu trúc ngữ pháp bất thường, không thành thục, thường
gặp trong lời nói tự nhiên của trẻ.
Trẻ
tự kỷ có thể đặt tên riêng cho đồ vật theo cách của mình, hoặc dùng những từ
riêng mà người khác không thể hiểu được. Nhưng, bé không biết sử dụng hoặc sử
dụng không đúng các giới từ, liên từ và đại từ. Trẻ có khuynh hướng không sử
dụng lời nói để giao tiếp. Thường nói rập khuôn, lập đi lập lại. Không biết
dùng lời nói để diễn tả ý trừu tượng. Không biết nói về chuyện quá khứ, chuyện
tương lai hoặc chuyện không xảy ra trước mắt.
Tiến
bộ hơn, một ít trẻ tự kỷ có thể nói về điều trẻ quan tâm, nhưng một khi người
lớn đáp ứng và bắt đầu nói chuyện với trẻ thì trẻ lại bỏ dở và rút khỏi cuộc
nói chuyện ấy. Nói chung, trẻ vẫn thiếu khả năng tương tác qua lại.
Những biểu hiện hành vi
bất thường
Không
thích sự thay đổi: Trẻ tự kỷ thường khó chịu trước những thay đổi trong môi
trường sống quen thuộc của chúng. Một sự thay đổi nhỏ trong thông lệ thường
ngày có thể làm trẻ nổi giận.
Nhiều
trẻ hay xếp đồ chơi và vật dụng thành hàng dài và rất khó chịu, nếu như trật tự
này bị thay đổi. Hiện tượng này gặp ở trẻ tự kỷ có chậm phát triển trí tuệ
nhiều hơn gấp hai lần so với trẻ tự kỷ có trí thông minh bình thường.
Hầu
hết trẻ tự kỷ đều chống lại việc học và thực hành một hoạt động mới.
Hành
vi mang tính chất miễn cưỡng: Các hành vi mang tính nghi thức, thúc ép ở trẻ tự
kỷ thường liên quan đến những thông lệ cứng nhắc như: từ chối ăn một loại thức
ăn nào đó; hoặc những hành vi có tính rập khuôn, lặp đi lặp lại (VD: vung vẩy
hai cánh tay, hoặc đưa bàn tay lên gần mặt rồi xoắn vặn hoặc bật bật các ngón
tay…).
Khi
lớn lên, trẻ có thể có các hành vi mang tính ám ảnh, chẳng hạn hỏi đi hỏi lại
cùng một câu hỏi, hay sờ đụng vào một số đồ vật nào đó…
Các
hành vi mang tính nghi thức, thúc ép thường xảy ra ở bệnh nhân tự kỷ không bị
chậm phát triển trí tuệ hơn là bệnh nhân có trí tuệ kém.
Có
những sự gắn bó bất thường: Trẻ có thể có những gắn bó đặc biệt với một số đồ
vật nào đó mà trẻ thích. Chẳng hạn như con búp bê, quả bóng, hình siêu nhân…trẻ
lúc nào cũng mang nó theo bên cạnh mình. Và nếu như ai lấy vật đó của trẻ thì
trẻ sẽ vô cùng giận giữ. Thậm chí, trẻ có thể la hét, và phản kháng lại một
cách không thân thiện. Nếu như vật này không được trả lại, trẻ sẽ quay sang tìm
một vật khác thay thế.
Các
đáp ứng không bình thường với những trải nghiệm giác quan: Trẻ tự kỷ có thể bị
mê hoặc bởi các bóng đèn, các hoa văn, những vật có chuyển động xoay tròn, hoặc
một thứ âm thanh nào đó.
Trẻ
thao tác trên đồ vật, đồ chơi không theo các cơ năng thông thường của món đồ
đó, mà như để thỏa mãn sự kích thích của các giác quan.
Trẻ
có thể kiên trì làm đi làm lại các thao tác xếp đồ vật thành hình dài, xếp
chồng đồ vật lên nhau hoặc xoay một món đồ để nó xoay tròn. Trẻ cũng có thể làm
đi làm lại những việc như dội nước bồn cầu hoặc liên tục tắt mở các bóng đèn.
Tuy
tránh né các tiếp xúc cơ thể, nhưng một số trẻ tự kỷ rất thích các trò chơi
mạnh bạo, ví dụ: tung hứng, đánh đu, “bay tàu bay”…
Rối
loạn về vận động: Các mốc chuyển tiếp trong quá trình phát triển vận động của
trẻ tự kỷ có thể bị chậm trễ hơn các trẻ bình thường. Các em thường gặp khó
khăn trong việc bắt chước các động tác. Nhiều trẻ rất hiếu động, nhưng sẽ giảm
bớt khi đến tuổi thiếu niên.
Trẻ
hay nhăn nhó, vỗ đập cánh tay, xoắn vặn bàn tay, đi nhón gót, chạy chúi đầu về
phía trước, nhảy, đi đều bước, lắc lư hoặc đu đưa thân mình, xoay đầu hoặc đập
đầu xuống đất, vào tường.
Một
số trẻ có trạng thái căng cơ khi phấn khích hoặc khi quá chăm chú.
Các
khiếm khuyết về trí tuệ và nhận thức: Hầu hết trẻ tự kỷ đều có chậm phát triển
trí tuệ. Khoảng 40 - 60% có IQ < 50.="" chỉ="" khoảng="" 20="" -="" 30%="" có="" iq="">= 70. Do
đa số trẻ tự kỷ khó làm các test trí tuệ (nhất là các test dùng lời nói) nên các
kết quả IQ vẫn còn bàn cãi .
Trẻ
tự kỷ có IQ thấp, thường kèm theo các khiếm khuyết nặng về kỹ năng quan hệ xã
hội và có nhiều đáp ứng xã hội lệch lạc. Chẳng hạn, trẻ hay sờ mó hoặc ngửi đồ
vật và người khác, có những hành vi định hình và tự gây thương tích bản thân.
1/3
trẻ tự kỷ có chậm phát triển trí tuệ sẽ bị động kinh, còn trẻ tự kỷ có trí tuệ
khá thì tỷ lệ này thấp hơn. Vì vậy, những bài trắc nghiệm IQ cũng phần nào có ý
nghĩa tiên lượng mà thôi.
Khác
với những trẻ chậm phát triển tâm thần, tình trạng chậm phát triển của trẻ tự
kỷ vẫn còn chừa lại những “khoảng” trí tuệ bình thường hoặc gần như bình thường
(thể hiện trong phần thao tác của các test trí tuệ).
Về
nhận thức, trẻ tự kỷ không thể bắt chước, không hiểu ý nghĩa của lời nói, cử
chỉ và điệu bộ, thiếu hẳn tính uyển chuyển, sáng tạo, không thể hiểu biết về
luật lệ, không thể xử lý hoặc sử dụng các thông tin.
Một số các biểu hiện
khác
-
Ở trẻ tự kỉ, những biểu hiện cảm xúc thường diễn ra có sự trái ngược nhau, bé
có thể khóc hay cười vô cớ, hoặc la hét khó kiểm soát. Đặc biệt, tiếng hét của
trẻ tự kỉ rất khác thường, rất chói tai.
-
Trẻ có thể leo trèo, chạy nhảy mà không sợ nguy hiểm, nhưng lại sợ một số tình
huống hay những vật thực chất không gây sợ hãi, như sợ chó hay mèo… hoặc sợ đến
một nơi nào đó.
-
Xuất hiện ở trẻ những thói quen bất thường như: cắn móng tay, cắn tóc, cào tay
lên tường khi giận giữ. Các thói quen này thường gặp ở trẻ tự kỉ, chậm phát
triển trí tuệ và những trẻ có thói quen xoay vòng vòng mà không chóng mặt.
>>
AloBacsi.vn (Theo mangthai.vn)