Nguyên nhân gây bệnh mạch vành

Động mạch vành có chức năng cung cấp máu nuôi quả tim. Khi động mạch vành bị hẹp, có khi tắc hoàn toàn hoặc do co thắt mạch,

15.5893
Động mạch vành có chức năng cung cấp máu nuôi quả tim. Khi động mạch vành bị hẹp, có khi tắc hoàn toàn hoặc do co thắt mạch, sẽ khiến dòng máu đi nuôi tim không đủ và dẫn đến tình trạng thiếu máu cơ tim. Nguyên nhân chủ yếu do các mảng xơ vữa, vì thế đôi khi còn gọi là bệnh tim do xơ vữa động mạch. Đây là nguyên nhân tử vong hàng đầu trên thế giới. Ở Việt Nam, theo thống kê của Viện Tim mạch Quốc gia, bệnh mạch vành ngày càng gia tăng và có xu hướng trẻ hóa.

Đau thắt ngực là dấu hiệu thường gặp và điển hình

Khi vùng cơ tim bị thiếu máu sẽ gây ra những cơn đau ngực. Người bệnh cảm giác đau như bó chặt hoặc đè nặng, đôi khi đau như nhói, nóng rát ở vùng ngực. Đau thường lan tỏa, lan xuyên xuống cẳng tay, lan ra phía sau ngực hoặc hai vai. Đau ngực thường xuất hiện khi gắng sức và người bệnh nghỉ ngơi sẽ đỡ đau. Đôi khi bệnh nhân chỉ thấy hồi hộp, hụt hơi và mệt, kèm theo các dấu hiệu chóng mặt, hoảng hốt.

Nguyên nhân do đâu?

Bệnh mạch vành liên quan nhiều đến chế độ ăn, sinh hoạt và làm việc. Ở nước ta, điều kiện kinh tế đang dần cải thiện, vì vậy số bệnh nhân mạch vành ngày càng tăng. Ðể phòng tránh bệnh, cần tuân thủ chế độ ăn hợp lý: hạn chế ăn mỡ động vật, không hút thuốc lá, tránh béo phì, tập thể dục đều đặn. Khi phát hiện các bệnh như đái tháo đường, tăng huyết áp, rối loạn mỡ máu... cần điều trị và kiểm soát thường xuyên.
Do chất mỡ (cholesterol) trong máu tăng lên, lắng đọng lại tạo thành mảng xơ vữa làm cho lòng mạch bị hẹp hoặc tắc hoàn toàn khiến cho máu đến vùng cơ tim tương ứng bị thiếu và gây ra những cơn đau ngực, nhất là khi gắng sức. Khi động mạch vành hẹp trên 50% khẩu kính lòng mạch, cơn đau ngực có thể xảy ra. Nếu mạch máu tắc thì nguy cơ hoại tử cơ tim gây đột tử hoặc nhẹ hơn là giảm sức lao động. Khi mảng xơ vữa bị vỡ, có thể gây tắc mạch đột ngột và cũng gây ra hoại tử cơ tim. Đây là những biến chứng rất nặng.

Yếu tố nguy cơ

Có rất nhiều yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh mạch vành, trong đó hay gặp nhất những người có tiền sử hút thuốc lá, tăng huyết áp, bệnh đái tháo đường, rối loạn mỡ máu, béo phì, ít vận động, cuộc sống có nhiều căng thẳng và hay gặp ở người lớn tuổi. Tuy nhiên, đây là những nguy cơ có thể phòng ngừa được.

Chẩn đoán dễ dàng

Việc chẩn đoán bệnh mạch vành ngày nay đã trở nên dễ dàng. Ngoài các phương pháp thăm dò đơn giản như điện tim đồ, siêu âm tim đến các phương pháp hiện đại như xạ hình tưới máu cơ tim, chụp cắt lớp vi tính đa dãy (MSCT) và chụp động mạch vành. Phương pháp chụp động mạch vành là phương pháp quan trọng nhất, cho biết chính xác động mạch vành có bị hẹp hay không, vị trí, mức độ hẹp... từ đó giúp thầy thuốc chuyên khoa có phương pháp điều trị thích hợp. Đây là phương pháp có xâm lấn, bác sĩ chuyên khoa can thiệp mạch sẽ luồn một ống nhỏ vào động mạch ở bẹn lên đến động mạch vành, sau đó bơm thuốc cản quang và chụp bằng tia Xquang ở các tư thế khác nhau. Hiện nay, các bệnh viện tuyến Trung ương và một số bệnh viện tuyến tỉnh đã có các trung tâm tim mạch để chụp được mạch vành.

Lời khuyên của bác sĩ

Khi bác sĩ chuyên khoa tim mạch chẩn đoán bệnh mạch vành, người bệnh cần được điều trị bằng thuốc và phải thay đổi lối sống. Bỏ thuốc lá, giảm cân nếu có béo phì, tập thể dục điều độ, giảm thiểu những căng thẳng, áp lực trong công việc. Nếu người bệnh có các bệnh kèm theo như đái tháo đường, tăng huyết áp thì cần được điều trị tích cực.

Khi mạch vành bị hẹp đáng kể, cần có các can thiệp sớm. Có hai phương pháp:

Phương pháp nong và đặt giá đỡ (stent) động mạch vành: Bác sĩ sẽ đưa một ống thông có quả bóng ở đầu đến chỗ hẹp, sau đó bơm căng quả bóng, ép các mảng xơ vữa lại làm rộng lòng động mạch. Có thể stent trong lòng mạch tại chỗ hẹp. Phương pháp này người bệnh không phải mổ, thời gian nằm viện ngắn (1 - 2 ngày). Hiện nay, nong và đặt stent động mạch vành đang phát triển và được chọn lựa nhiều.
Phương pháp mổ bắc cầu nối động mạch chủ - động mạch vành:
Bác sĩ phẫu thuật sẽ dùng một đoạn mạch của chính bệnh nhân, nối từ động mạch chủ xuống động mạch vành sau chỗ hẹp. Tùy theo có một hay nhiều chỗ hẹp mà bắc một hay nhiều cầu nối.
BS. Ngô Tuấn Anh

Đọc Nhiều Nhất

CHỦ ĐỀ HOT

  • Bệnh Gan mật
Chia sẻ: Email Print 0Bình luận »

Gửi bình luận của bạn

Các thắc mắc của bạn đọc về sức khỏe sẽ được giải đáp tại chuyên mục Phòng mạch online, mời các bạn đón đọc.
Tổng biên tập: TTƯT.BS.Trần Sĩ Tuấn
0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]