Ngày nay, mặc dù có nhiều
tiến bộ trong công tác chữa bỏng, nhưng ở tổn thương bỏng sâu, sau khi được
phục hồi da và những bộ phận bị tổn thương vẫn tồn tại những di chứng tại chỗ
hoặc có loại sau một thời gian mới phát sinh và tiến triển nặng, ảnh hưởng đến
chức năng chi thể hoặc bộ phận cơ thể và thẩm mỹ, đến khả năng lao động và sinh
hoạt bình thường của người bị bỏng.
Điều trị di chứng bỏng
Mức độ di chứng phụ thuộc vào
độ sâu, vị trí của bỏng, phương pháp điều trị tổn thương bỏng... bao gồm các
loại chính: sẹo phì đại, sẹo lồi và sẹo co kéo. Ngoài ra, còn có thể gặp các
biến chứng như dính tổ chức, loét thiểu dưỡng, ung thư hóa trên nền sẹo...
Hướng dẫn tập vận động phục
hồi chức năng cho người bệnh. |
Điều trị di chứng bỏng là một
vấn đề ngày càng được quan tâm nhằm cải thiện sức khỏe, phục hồi công năng,
phục hồi thể hình và thẩm mỹ cho
bệnh nhân, góp phần nâng cao chất lượng sống
cho người bệnh. Các biện pháp cụ thể:
Sử dụng thuốc: như
corticosteroid tiêm vào sẹo, các thuốc nhóm kháng histamin, penicillamin, methotrexat,
colchicin, madecassol, hirudoid... bôi tại chỗ.
Biện pháp cơ học: băng ép tạo
áp lực, băng ép kết hợp silicon gel, dụng cụ cố định tứ chi, cổ...
Vật lý liệu pháp: như áp lạnh
cục bộ, chiếu tia X, siêu âm, điện xung: làm giảm đau trong sẹo, sử dụng laser
CO2, các loại laser màu...
Phẫu thuật: Hiện nay, phẫu
thuật đóng vai trò chủ yếu trong điều trị di chứng bỏng, nhất là điều trị sẹo
co kéo. Cần chú ý, về thời gian, thường đợi cho sau 6 tháng kể từ khi vết bỏng
thành sẹo mới mổ. Trước khi phẫu thuật, phải khẳng định sẹo đã ổn định chưa,
sẹo đã ổn định mềm, trong khi đó sẹo chưa ổn định cứng, vẫn còn các tế bào viêm
và myofibroblast sẽ gây nên co kéo thứ phát sau phẫu thuật. Cần có kế hoạch xử
trí thích hợp và dự kiến lâu dài, chú ý mổ từng đợt, giải quyết từng bước, mổ
kết hợp với vận động lý liệu pháp cho từng bệnh nhân.
Các phương pháp phẫu thuật
gồm: chuyển vạt da (vạt chuyển, vạt xoay tại chỗ, vạt V – Y, tạo hình chữ U,
vạt có cuống mạch nuôi hằng định, vạt da kiểu Ý, trụ filatop, vạt tự do có nối
mạch vi phẫu...); Phẫu thuật ghép da, hiệu quả nhất là ghép da dày toàn lớp
kiểu WK (Wolffe Krause), ngoài da còn ghép da xẻ đôi, ghép da mỏng; giãn tổ
chức.
Vật lý trị liệu phục hồi chức
năng, tái hòa nhập cộng đồng
Vật lý trị liệu ở các bệnh
nhân bị bỏng là một công việc quan trọng và phải được thực hiện thường xuyên
nhằm phục hồi chức năng các cơ quan, tăng cường sức đề kháng cơ thể giúp cho sự
liền vết thương và tránh những biến chứng do nằm lâu của bệnh nhân bỏng như
loét các điểm tì, viêm phổi, nhiễm trùng tiểu, loãng xương, co rút các
khớp... Vật lý trị liệu mà chủ yếu là vận động liệu pháp (Kinesistherapy) có
hay không có dụng cụ hỗ trợ nên được áp dụng cho bệnh nhân bị bỏng ngay trong
giai đoạn bỏng mới khi bệnh nhân vừa thoát sốc, có thể chia làm 3 giai đoạn
áp dụng vật lý trị liệu cho bệnh nhân:
Giai đoạn 1: Giai đoạn cấp,
mục đích ngăn ngừa: sự giới hạn của khớp, sự co rút của gân, cơ, biến chứng
đường hô hấp, phù nề.
Giai đoạn 2: Giai đoạn sau
giai đoạn cấp, mục đích: phục hồi trương lực cơ, đưa trở lại trạng thái bình
thường, giúp bệnh nhân hồi phục trong thời gian ngắn nhất nếu có thể.
Giai đoạn 3: Giai đoạn di
chứng, mục đích: ngăn ngừa sẹo, điều trị di chứng khớp, di chứng thần kinh, đưa
bệnh nhân hội nhập lại môi trường sống, gia đình và xã hội.
Các bác sĩ điều trị và chuyên
gia trị liệu sẽ khám và hoạch định kế hoạch điều trị về vật lý trị liệu, phục
hồi chức năng cho bệnh nhân từ lúc nhập viện đến lúc ra viện. Sau khi ra viện,
bệnh nhân vẫn phải theo một chương trình tập luyện để chống các di chứng của
sẹo bỏng.
Ngoài ra, một vấn đề cần chú
ý trong điều trị bỏng là tâm lý liệu pháp. Thời gian điều trị bỏng sâu diện
rộng thường kéo dài, hàng ngày, người bệnh cần tiếp nhận nhiều thủ thuật gây
đau đớn, chấn thương thêm, mất máu (thay băng, tiêm truyền, thay đổi tư thế,
lấy máu xét nghiệm, phẫu thuật các loại...), do đó, đặc biệt cần chú ý đến tâm
lý tiếp xúc, thái độ ân cần động viên, phục vụ tận tình và thông cảm sâu sắc
với hoàn cảnh người bệnh. Sau khi khỏi ra viện, bệnh nhân vẫn thường có tâm lý
tự ti về hình thể, ngại tiếp xúc với mọi người xung quanh, khó khăn trong tái
hòa nhập cộng đồng. Ở các nước phát triển, vấn đề tâm lý liệu pháp đã được chú
ý đúng mức, bệnh nhân luôn được tư vấn, giúp đỡ kịp thời của hệ thống các
chuyên gia tâm lý. Còn ở nước ta, chưa có hệ thống các chuyên gia tâm lý cho
người bệnh nói chung và người bệnh bỏng nói riêng, chủ yếu dựa vào người nhà
bệnh nhân, do đó, vấn đề tái hòa nhập cộng đồng của bệnh nhân còn nhiều khó
khăn.
Công tác điều trị bỏng, nhất
là bỏng sâu diện rộng rất khó khăn, tốn kém, đòi hỏi phải điều trị toàn diện,
tích cực, điều trị toàn thân kết hợp điều trị tại chỗ, chú trọng dự phòng và
điều trị di chứng bỏng, phục hồi chức năng và tái hòa nhập cộng đồng cho người
bệnh.
TS. Chu
Anh Tuấn (Viện Bỏng QG)
Các phương pháp điều trị phẫu
thuật trong bỏng:
Các kỹ thuật xử trí hoại tử
bỏng: rạch hoại tử bỏng, cắt bỏ hoại tử bỏng (tiếp tuyến hoặc toàn lớp), khoan
đục xương bị hoại tử, cắt cụt chi, tháo khớp, lấy sụn viêm...
Các phẫu thuật ghép da và che
phủ tổn khuyết bỏng: ghép da tự thân (mảnh lớn, mảnh nhỏ, mảnh da tem thư...),
ghép da đồng loại, di loại, màng sinh học; chuyển vạt da...
Phẫu thuật điều trị các biến
chứng ngoại khoa ở bệnh nhân bỏng: thắt mạch máu, mổ dẫn lưu các ổ áp-xe, viêm
mủ khớp, mở khí quản, khâu lỗ thủng tiêu hóa...
Phẫu thuật điều trị các di
chứng bỏng. |