Ung thư là một bệnh được nói đến rất sớm nhưng cho đến nay nó vẫn
chưa thực sự được biết một cách đầy đủ về nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh
cũng chưa biết định nghĩa chính xác thế nào là một bệnh
ung thư. Tuy
nhiên có một số nét cơ bản đã được các chuyên gia sức khỏe cho biết một
cách tương đối đầy đủ.
Ung thư là gì?
Ung thư là bệnh lý ác tính của tế bào. Khi bị kích thích bởi các tác
nhân sinh ung thư, tế bào tăng sinh một cách vô hạn độ, vô tổ chức,
không tuân theo các cơ chế kiểm soát về phát triển của cơ thể. Đa số
người bệnh ung thư đều hình thành các khối u. U ác tính hoàn toàn khác
với khối u lành tính.
U lành tính: chỉ phát triển
tại chổ thường rất chậm, có vỏ bọc xung quanh nên ranh giới rõ, mật độ
thường mềm hoặc chắc, không xâm lấn, không di căn, khi bóc đi sẽ khỏi
bệnh.
U ác tính: thường phát triển
nhanh, u thường không có ranh giới rõ, xâm lấn ra xung quanh và thường
di căn xa theo đường bạch mạch và đường máu.
Đa số các bệnh ung thư thường có biểu hiện mạn tính, có quá trình
phát sinh và phát triển lâu dài qua nhiều giai đoạn trừ một số nhỏ ung
thư ở trẻ em tiến triển nhanh do đột biến gien từ lúc bào thai.
Theo UICC (Tổ chức chống ung thư quốc tế) thì tỷ lệ ung thư trẻ em là
1/600. Các loại ung thư thường gặp ở trẻ em là: Ung thư hạch bạch huyết
35,5%; ung thư hệ thần kinh trung ương 11%; ung thư xương, ung thư mô
mềm 11,4%; u lymphô ác 10%; ung thư hốc mắt 8,5%.
Các ung thư người lớn đều qua giai đoạn tiềm tàng có khi hàng chục
năm, đặc biệt là ung thư tuyến giáp, ung thư cổ tử cung, ung thư
da...Khi khối u lớn phát triển nhanh mới có các triệu chứng lâm sàng.
Đau thường là triệu chứng của bệnh ung thư ở giai đoạn cuối.
Ung
thư là bệnh lý ác tính của tế bào. Khi bị kích thích bởi các tác nhân
sinh ung thư, tế bào tăng sinh một cách vô hạn độ, vô tổ chức
Các loại ung thư khác nhau như thế nào?
Ung thư có thể phát sinh và phát triển ở tất cả các cơ quan và bộ
phận trên cơ thể. Có những ung thư xuất phát từ các tổ chức nông của cơ
thể nên dễ phát hiện sớm. Ngược lại, có những ung thư xuất phát ở các tổ
chức sâu nên rất khó phát hiện.
Cho đến nay người ta đã biết được trên 200 loại ung thư khác nhau
trên cơ thể. Các loại ung thư này có những điểm giống nhau về cơ bản
nhưng cũng có những đặc điểm khác nhau.
Về nguyên nhân gây ung thư, các chuyên gia chia ra làm 2 nhóm chính:
tác nhân bên trong (chủ yếu do yếu tố di truyền và nội tiết) và tác nhân
bên ngoài.
Qua các nghiên cứu dịch tễ học, 80% các nhân sinh ung thư là bắt
nguồn từ môi trường sống (tác nhân bên ngoài) trong đó hai tác nhân
chính là: 35% do chế độ ăn uống gây nhiều loại ung thư đường tiêu hóa và
khoảng 30% ung thư do thuốc lá là nguyên nhân của 90% ung thư phổi và
là thủ phạm chính gây ung thư đường hô hấp trên, ung thư vùng đầu cổ...
Một số tác nhân thường gặp khác:
Tia phóng xạ: thường gây ung thư máu, ung thư tuyến giáp ; tác nhân
virút: cũng được nói đến nhiều trong các nguyên nhân gây ung thư. Trong
đó, có 4 loại virút được nhắc đến:Virus Epstein-Barr: gây ung thư vòm
họng, U lymphô ác tính.Virus viêm gan B (HBV) là tác nhân gây ung thư
gan nguyên phát.
Virus gây u nhú (HPV) gây ung thư cổ tử cung, âm đạo, âm hộ, ung thư dương vật.
Virus gây bệnh bạch cầu dòng lympho T ở người (HTLV).
Ung thư thường xuất phát từ hai loại tổ chức chính của cơ thể: Ung
thư biểu mô (carcinoma) chiếm hơn 90% các ung thư trong cơ thể; ung thư
tổ chức liên kết (sarcoma).
Loại sùi ra ngoài nhiều và xâm lấn ra xung quanh như càng cua là ung
thư thuộc loại carcinoma và một loại phát triển vào sâu là sarcoma.
Ung thư thường tiến triển khác nhau trong từng loại, trong mỗi cá thể
khác nhau xu hướng tiến triển cũng rất khác nhau: Có loại ung thư tiến
triển nhanh (ung thư máu, hạch, ung thư hắc tố, các ung thư liên
kết...); có nhiều loại ung thư tiến triển chậm (ung thư da tế bào đáy,
ung thư giáp trạng, ung thư cổ tử cung...).
Con đường di căn chủ yếu cũng khác nhau: Ung thư biểu mô thường di
căn sớm tới các hạch khu vực; ung thư liên kết (xương, phần mềm) thường
di căn sớm theo đường máu tới các tạng ở xa như gan, phổi, xương...
Thông thường ung thư càng ở giai đoạn muộn, càng hay có di căn ra
hạch khu vực và di căn xa nhưng đôi khi có di căn rất sớm, thậm chí từ
lúc chưa phát hiện thấy u nguyên phát.
Tốc độ phát triển của ung thư cũng tùy thuộc vào từng giai đoạn. Giai
đoạn sớm (insitu, giai đoạn I) ung thư tiến triển chậm; giai đoạn muộn
(giai đoạn 3,4) ung thư tiến triển nhanh; ung thư ở người càng trẻ tiến
triển càng nhanh.
Các loại ung thư cũng khác nhau về phương pháp điều trị. Trong y văn
có nói đến một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 1/10.000) ung thư tự khỏi. Người ta
cho rằng các cá thể này có hệ thống miễn dịch tự điều chỉnh, tiêu diệt
được các tế bào ung thư. Nếu ung thư không được điều trị thì chắc chắn
bệnh nhân sẽ tử vong.
Càng điều trị ung thư ở giai đoạn sớm, bệnh nhân càng có nhiều cơ may
khỏi ung thư. Ở những giai đoạn muộn, việc điều trị nhằm kéo dài cuộc
sống hoặc cải thiện chất lượng sống cho bệnh nhân ở giai đoạn cuối.
Cho đến nay, việc điều trị ung thư dựa vào 5 phương pháp chính: Phẫu
thuật; tia xạ; hóa chất; nội tiết; miễn dịch. Tuy nhiên áp dụng phương
pháp nào để điều trị có hiệu quả còn tuỳ thuộc vào giai đoạn, vào sức
chịu đựng của cơ thể, vào khả năng của cơ sở điều trị và một phần vào
kinh nghiệm của thầy thuốc chuyên khoa.
Tiên lượng ung thư phụ thuộc rất nhiều yếu tố trên từng bệnh nhân.
Giai đoạn ung thư: càng sớm tiên lượng càng tốt và ngược lại. Ung thư ở
bề mặt có tiên lượng tốt hơn vì dễ phát hiện, dễ điều trị.Độ ác tính
càng cao tiên lượng càng xấu.
Ở người già, ung thư thường
tiến triển chậm hơn nhưng do sức chịu đựng kém nên khó thực hiện được
phác đồ điều trị một cách triệt để nên càng già yếu tiên lượng càng xấu.
Chúng ta hoàn toàn có thể phòng ngừa được ung thư. Do biết được
nguyên nhân gây ung thư chủ yếu do môi trường ngoài (80%) nên có thể chủ
động phòng ngừa được bằng các biện pháp tích cực như: Ngăn chặn các tác
nhân tác động từ bên ngoài; ngừng hút thuốc lá; chế độ dinh dưỡng vệ
sinh an toàn hợp lý; chống lạm dụng các hóa chất công nghiệp, ô nhiểm
môi trường, phòng các bệnh nghề nghiệp. Một số ung thư có liên quan đến
virút, co thể phòng ngừa bằng tiêm vaccine đặc biệt là vaccine phòng
viêm gan B.
Tích cực điều trị các tổn thương tiền ung thư bằng cách càng lọc phát
hiện sớm để điều trị ở giai đoạn sớm các ung thư như ung thư vú, cổ tử
cung, khoang miệng, đại trực tràng; điều trị bệnh ung thư ở giai đoạn
sớm.
Do không nắm được bệnh lý của ung thư nên trong nhân dân trước đây và
hiện nay đang có một số quan niệm sai lầm: bệnh ung thư là vô phương
cứu chữa, không được dùng dao kéo để điều trị.
Quan niệm này cũng bắt
nguồn từ một thực tế khách quan là từ trước đến nay phần lớn bệnh nhân
đến khám và điều trị ở giai đoạn muộn nên không có chỉ định phẫu thuật
triệt để hoặc phẫu thuật sai kỹ thuật.
Trên thực tế ở các nước có nền y học tiên tiến, phần lớn bệnh nhân
đến khám và điều trị ở các giai đoạn sớm nên 50% bệnh nhân được chữa
khỏi bệnh.