Vi
nhân giống là một phần quan trọng của ngành nhân giống thực vật, song việc
ứng dụng vi nhân giống theo
phương pháp cổ truyền trên
môi trường thạch và lỏng
đều bị giới hạn, thất thoát do nhiễm vi khuẩn và nấm, mô thực vật chết do hiện
tượng trương nước, thủy tinh thể...
Bởi vậy, Thạc sĩ Cung Hoàng Phi Phượng cùng các cộng sự thuộc Trung tâm công
nghệ sinh học thành phố Hồ Chí Minh đã ứng dụng
hệ thống ngập chìm tạm thời để
nhân giống Lan Hồ Điệp lai.
Hệ thống
nuôi cấy ngập chìm tạm thời (TIS) vừa tận dụng được các ưu điểm của hệ
thống nuôi cấy lỏng và nuôi cấy trên thạch, vừa hạn chế được nhược điểm của hai
hệ thống này.
Hơn nữa, hệ thống này tạo ra môi trường nuôi cấy thoáng khí, cây con khỏe mạnh, tỉ lệ
sống cao, giảm chi phí nhân công, tiết kiệm và giảm chi phí môi trường nuôi cấy
do sử dụng ít môi trường trên một mẫu cấy và không sử dụng thạch, hệ số nhân gia
tăng nhiều lần so với khi nhân giống trên hệ thống nuôi cấy thông thường.
Thí nghiệm từ các hệ thống nuôi cấy khác nhau lên sự sinh trưởng và phát triển
của chồi Hồ Điệp cho thấy hệ thống càng có nhiều sự thông thoáng, chồi Hồ Điệp
càng sinh trưởng và phát triển tốt hơn.
Ở hệ thống TIS nhờ hệ thống bơm đẩy môi trường lên để tạo sự ngập chìm cho mẫu
cấy, trong quá trình bơm, môi trường khí được trao đổi giữa bên trong và bên
ngoài bình thông qua hệ thống bơm và các màng lọc nên có sự thông thoáng nhiều
hơn so với trong bình
tam giác kín thông thường.
Các chỉ tiêu chiều cao cây, chiều dài và rộng của lá, số rễ và chiều dài rễ đều
lớn hơn từ 1-2 lần so với trong bình tam giác.
Tần suất ngập 3 phút trong chu kỳ 6 giờ với thể tích nuôi cấy 200ml và mật độ 6g
mẫu chồi ban đầu cho kết quả số chồi tạo thành trên một mẫu là cao nhất.
Nuôi
cấy Lan Hồ Điệp lai trên hệ thống TIS cho tỷ lệ nhân chồi ban đầu gấp 3 lần trên
môi trường thạch và gấp 1,3 lần trên môi trường lỏng.
Đối với giai đoạn tái sinh chồi và nhân chồi, hệ thống TIS cho tỷ lệ nhân chồi
gấp 3,6 lần so với nuôi cấy trên thạch, giúp gia tăng tỷ lệ tạo cây con lên 10,8
lần so với phương pháp nuôi cấy truyền thống.
Thạc sĩ Phượng cho biết hệ thống này lần đầu tiên được ứng dụng trong nuôi cấy
mô ở Việt Nam mở ra một hướng đi mới cho ngành nhân giống trong ống nghiệm,
nhưng cần có những nghiên cứu sâu rộng hơn nữa để tối ưu hóa các thông số kỹ
thuật theo từng giai đoạn nuôi cấy và trên từng loại
cây trồng khác nhau, để
từng bước xây dựng quy trình nhân giống cây trồng trong hệ thống TIS./.