Một
khẩu phần ăn chỉ có đạm (thịt gà), chất xơ (dưa leo) mà không có
tinh bột - Ảnh: CHÂU ANH
Tuy có thể phát huy tác dụng nhưng chế độ ăn này tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ.
Chế độ ăn rất thấp tinh bột thường chứa dưới 10% năng lượng từ tinh bột và năng
lượng còn lại được cung cấp từ chất đạm và chất béo. Tỉ lệ này là rất thấp vì một chế độ ăn bình
thường lượng tinh bột chứa khoảng 60-70% năng lượng khẩu phần, thậm chí chế độ ăn cho người đái
tháo đường (bị hạn chế tinh bột) cũng chứa ít nhất 55% năng lượng.
Lợi thì có lợi, nhưng…
Do không được cung cấp tinh bột để tạo glucose làm nhiên liệu cho tế bào cơ thể,
buộc lòng cơ thể phải phân hủy mô mỡ, cả khối cơ để lấy nguyên liệu tạo ra glucose và thể ceton cho
hoạt động hằng ngày. Chế độ ăn này có góp phần giúp giảm cân, ổn định đường huyết ngắn hạn ở vài
trường hợp người béo phì và đái tháo đường thông qua nhiều cơ chế như thể ceton giúp giảm cảm giác
đói, không có tinh bột làm bữa ăn kém ngon, lượng chất đạm nhiều cũng giúp tăng cảm giác no…
Trong
y văn, chế độ ăn rất thấp năng lượng cũng giúp ổn định cho bệnh nhi mắc bệnh động kinh nặng không
đáp ứng tốt với thuốc, tuy nhiên bệnh nhi sử dụng chế độ ăn này cũng có nguy cơ nhiều tác dụng phụ.
Ngoài ra, chế độ ăn rất thấp năng lượng phát huy một phần tác dụng trong bệnh gan nhiễm mỡ.
"Chế độ ăn rất thấp tinh bột không tạo thói quen ăn uống lành mạnh và
không giúp kiểm soát cân nặng lâu dài, bền vững"
|
Tuy nhiên, chế độ ăn rất thấp tinh bột nếu cần thiết chỉ nên sử dụng trong thời
gian ngắn (dưới ba tháng) với sự chỉ định và theo dõi y khoa chặt chẽ, vì sử dụng kéo dài có thể
phát sinh một số vấn đề về
rối loạn chuyển hóa do thiếu tinh bột và thừa đạm, béo trong khẩu phần
ăn.
Nếu sử dụng kéo dài, trước tiên bệnh nhân có thể có các triệu chứng như nhức đầu,
vọp bẻ, tiêu chảy, yếu mệt, nổi ban… do thiếu các vitamin, khoáng chất có nhiều trong thực phẩm
giàu tinh bột, bao gồm vitamin B1, vitamin C, pyridoxin, niacin, riboflavin, acid folic, phospho,
sắt, đồng, mangan, chrom. Sử dụng kéo dài chế độ ăn này cũng làm gia tăng nguy cơ bệnh tim mạch do
nồng độ chất béo bão hòa và cholesterol cao trong khẩu phần ăn tăng chất béo bù tinh bột, gây cứng
thành động mạch, gia tăng LDL cholesterol.
Chế độ ăn rất thấp tinh bột cũng được cho rằng làm giảm
nồng độ serotonin trong não, dẫn đến các tác dụng phụ về cảm xúc và nhận thức như gia tăng lo lắng,
nóng giận, rối loạn cảm xúc, mệt mỏi, trầm cảm, giảm khả năng hoạt động thể lực… Chưa kể, khẩu phần
ăn nhiều chất đạm (thịt cá) sẽ gia tăng đào thải canxi qua đường nước tiểu (do làm gia tăng độ acid
của nước tiểu), từ đó dẫn đến nguy cơ loãng xương ở người bệnh. Cuối cùng chế độ ăn rất thấp tinh
bột gây rối loạn tiêu hóa, táo bón do thiếu tinh bột giúp điều hòa chức năng đường tiêu hóa và giảm
khối phân.
Các chế độ ăn giảm thiểu hoặc loại bỏ hoàn toàn tinh bột
Chế độ ăn |
Năng lượng từ tinh bột (%) |
Năng lượng từ protein (%) |
Năng lượng từ chất béo (%) |
Chế độ ăn giảm thiểu tinh bột (còn khoảng ½ chén cơm/bữa) |
Thấp tinh bột (Zone diet) |
40 |
30 |
30 |
Thấp tinh bột, giàu đạm |
20-40 |
30-60 |
2-30 |
Thấp tinh bột, giàu béo |
20-40 |
20-30 |
30-60 |
Chế độ ăn loại bỏ tinh bột hoàn toàn (loại bỏ hẳn cơm) |
Rất thấp tinh bột (Atkins diet) |
10 |
35 |
50 |
Rất thấp tinh bột, giàu đạm |
0-20 |
55-65 |
25-35 |
Ăn cân bằng dinh dưỡng
Để giúp giảm cân và duy trì cân nặng, mọi người nên
theo đuổi chế độ ăn thấp năng lượng nhưng cân bằng dưỡng chất đạm, tinh
bột và béo, trong đó lượng tinh bột có thể giảm nhưng không quá cực đoan
như trong chế độ ăn rất thấp tinh bột.
Việc kiểm soát tinh bột rất quan trọng, nhưng chúng ta
nên hướng đến chuyện tiêu thụ các loại tinh bột có chỉ số đường huyết
thấp như gạo lứt (loại gạo còn nhiều cám), các loại khoai (khoai mì,
khoai sọ, khoai lang…), bánh mì làm từ lúa mì nguyên hạt, tăng tiêu thụ
rau củ quả (giúp làm chậm hấp thu các chất dinh dưỡng, tăng cảm giác no
lâu), kiểm soát số lượng thực phẩm ăn vào, tăng tiêu thụ chất đạm từ
thực vật, hạn chế thực phẩm giàu béo, giàu cholesterol.
Kinh nghiệm cho thấy nếu được tư vấn kỹ cũng như tái
khám thường xuyên trong quá trình điều trị, người dư cân, béo phì sẽ đạt
được mục tiêu và thành công trong việc điều trị. Mục tiêu trong điều
trị béo phì về bản chất không phải là việc sụt bao nhiêu cân nặng mà là
tăng cường sức khỏe, hạn chế biến chứng do béo phì gây ra, do đó không
có lý do gì theo đuổi một chế độ ăn hay một cách giảm cân nào đó chỉ có
tác dụng giảm cân nặng nhưng lại sinh ra nhiều rối loạn chuyển hóa và
tiềm ẩn nhiều nguy cơ bệnh tật khác cho cơ thể.
AloBacsi.vn
Theo ThS.BS trần Quốc Cường - Tuổi trẻ