Các chỉ định sử dụng của amiodaron
Mặc dù thuốc đã được giới thiệu ở châu Âu trong những năm 1960,
nhưng đến giữa những năm 1980 mới được tung ra thị trường Mỹ. Khi đó, amiodaron đường uống được Cơ
quan Quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ (FDA) chấp thuận với chỉ định sử dụng để điều trị các rối loạn
nhịp thất mà không đáp ứng với các hình thức điều trị khác. Đến năm 1995, amiodaron đường tiêm
truyền tĩnh mạch đã được đưa vào các khuyến cáo điều trị với những chỉ định hạn chế. Tuy nhiên, qua
nhiều thử nghiệm lâm sàng, cho đến nay, đây là thuốc được lựa chọn cho việc chuyển đổi và duy trì
nhịp xoang trong trường hợp rung nhĩ, một rối loạn nhịp hay gặp và nguyên nhân nhập viện thường
xuyên.
Amiodaron còn được sử dụng điều trị duy trì cho những bệnh nhân sau
ngừng tim do nhịp nhanh thất kéo dài và những người có rối loạn nhịp thất sau nhồi máu cơ tim. Có
thể được sử dụng cho bệnh nhân có tiền sử suy tim sung huyết và những người có máy khử rung tim cấy
dưới da.
Tuy được sử dụng thường xuyên và rộng rãi nhưng amiodaron vẫn có
những độc tính nghiêm trọng. Vì vậy cần hiểu biết về amiodaron để theo dõi và sử dụng hợp lý, phát
hiện sớm các biến chứng khi đang sử dụng thuốc này.
Cường giáp - một tác dụng phụ có thể gặp khi sử dụng
amiodaron
|
Lưu ý khi sử dụng
Tác dụng phụ tiêu hóa của amiodaron bao gồm buồn nôn, chán
ăn, táo bón. Những triệu chứng này thường liên quan đến liều lượng và thường được cải thiện khi
giảm liều. Nên uống thuốc trong bữa ăn vì sẽ giúp tăng cường hấp thụ thuốc.
Biến chứng tại tuyến giáp: Đây là một hợp chất có chứa iốt.
Hàm lượng iodin cao của thuốc có thể là một yếu tố ảnh hưởng trên tuyến giáp. Cứ 100 bệnh nhân sử
dụng amiodaron lâu dài có 10 bệnh nhân xuất hiện nhiễm độc tuyến giáp, cường giáp hoặc suy giáp.
Suy giáp do amiodaron nhiều gấp 2-4 lần cường giáp. Ở bệnh nhân có biến chứng cường giáp, cần giảm
liều hoặc ngừng hoàn toàn amiodaron (nếu an toàn), bổ sung các thuốc kháng giáp trạng, corticoid
hoặc nặng hơn thì có chỉ định phẫu thuật tuyến giáp.
Biến chứng ở phổi là nguy hiểm nhất, thường gặp ở từ 2 -
17% số bệnh nhân sử dụng amiodaron lâu dài. Biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất là ho, khó thở tiến
triển, kết hợp với thâm nhiễm kẽ loang lổ trên Xquang phổi và giảm khả năng thông khí. Nặng hơn nữa
là hội chứng suy hô hấp cấp. Kiểm tra định kỳ để phòng biến chứng ở phổi có giá trị hạn chế vì
triệu chứng đột ngột xuất hiện, tiến triển rất nhanh, dù trước đó không có một dấu hiệu báo
trước.
Nhiễm độc gan, xuất hiện ở 0,6% bệnh nhân điều trị
amiodaron dài hạn, với biểu hiện tăng men gan. Bệnh nhân bị nhiễm độc gan hiếm khi có triệu chứng.
Nếu men gan cao hơn bình thường 3 lần, nên ngưng amiodaron, trừ khi bệnh nhân có nguy cơ cao tái
phát các rối loạn nhịp tim đe dọa tính mạng.
Đổi màu da: Bệnh nhân sử dụng amiodaron nên tránh ánh nắng
chiếu trực tiếp vào da, nên thoa kem chống nắng do tác dụng phụ gây rối loạn sắc tố da của thuốc
này. Sau một thời gian không sử dụng amiodaron, màu da có thể trở về bình thường.
Thay đổi về thị lực hoặc tầm nhìn ngoại vi ở bệnh nhân dùng
amiodaron nên được lưu ý để chỉ định khám chuyên khoa mắt. Viêm dây thần kinh thị giác, đôi khi dẫn
đến mù đã được mô tả ở một số ít bệnh nhân.
Biến chứng thần kinh ghi nhận được có thể bao gồm mất điều
hòa, dị cảm và run. Những điều kiện này thường liên quan đến liều lượng và cải thiện khi giảm
liều.
Nguy cơ gây ung thư: Theo công trình nghiên cứu mới được
công bố gần đây tại Bệnh viện đa khoa cựu chiến binh Taipei (Đài Loan) và được tạp chí Ung thư Hoa
Kỳ đăng tải, các thành phần độc hại của amiodaron được hòa tan trong các lớp mỡ của cơ thể và bị
phân hủy rất chậm, một lượng không nhỏ có thể tích lũy tại các mô cơ sau một thời gian sử dụng
thuốc lâu dài, amiodaron có nguy cơ gia tăng khả năng gây ra một số chứng ung thư cho bệnh
nhân.
Theo dõi khi dùng amiodaron
Vì các biến chứng nặng nề liên quan đến liều lượng và thời gian
khi dùng amiodaron nên cần theo dõi sát sao, phát hiện sớm để điều trị kịp thời. Khi bắt đầu điều
trị với amiodaron cần đánh giá cơ sở, bao gồm chụp Xquang, xét nghiệm chức năng phổi, điện giải đồ
huyết thanh, chức năng tuyến giáp, men gan, khám mắt. Mỗi 6 tháng nên kiểm tra lặp lại. Nên bắt đầu
từ liều thấp nhất và tăng liều từ từ sao cho đạt được kết quả tối ưu nhất với liều thấp nhất có thể
để tránh các biến chứng xảy ra.
AloBacsi.vn
Theo ThS.BS. Phạm Thị Mai Hương - Sức khỏe & Đời sống