Trẻ 5 đến 15 tuổi nguy cơ thấp tim cao

Thấp tim là bệnh thường gặp ở trẻ từ 5 đến 15 tuổi, xảy ra sau khi bị viêm họng do một loại vi trùng gọi là liên cầu khuẩn. Ở Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh thấp tim trong lứa tuổi học sinh khoảng 0.3%.

0

Thấp tim là bệnh thường gặp ở trẻ từ 5 đến 15 tuổi, xảy ra sau khi bị viêm họng do một loại vi trùng gọi là liên cầu khuẩn. Bệnh có thể gây suy tim, phù phổi trong giai đoạn cấp dẫn tới tử vong. Những trường hợp sưng tim nặng sẽ để lại sẹo trên tim, gây hẹp van tim, hở van tim, có thể cần phải phẫu thuật mới chữa khỏi.

Bệnh thường gây sưng đau các khớp, sưng tim, ngoài ra có thể gây phát ban ở da, có những nốt cục dưới da và múa giật. Chỉ có khoảng 3% trẻ bị viêm họng mắc bệnh này. Ở Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh thấp tim trong lứa tuổi học sinh  từ 5-15 tuổi khoảng 0.3%.



Điều trị chuyên khoa bệnh thấp tim


Trẻ mắc bệnh này phải được bác sĩ chuyên khoa tim mạch điều trị tại bệnh viện. Trẻ cần phải nghỉ ngơi tuyệt đối trên giường ít nhất là 2 tuần, những trường hợp nặng có khi phải nghỉ ngơi 6 tuần tới 3 tháng. Nếu trẻ nào bị sưng tim, suy tim phải ăn nhạt: không nêm muối vào thức ăn, không ăn nước mắm, nước tương và chỉ uống nước khi khát mà thôi.

Bác sĩ sẽ cho trẻ uống kháng sinh Penicillin trong 10 ngày để điều trị viêm họng và uống thuốc chống sưng khớp - aspirin, sưng tim - prednisone ít nhất là 6 tuần. Những trẻ bị suy tim còn được cho thêm các thuốc điều trị suy tim. Gia đình phải tuyệt đối tuân theo chỉ dẫn của bác sĩ khi cho trẻ uống các thuốc chống sưng và điều trị suy tim này, không tự động ngưng, tăng hoặc giảm liều thuốc, vì như thế bệnh có thể nặng lên hoặc rất nguy hiểm cho trẻ. Nếu trẻ bị múa giật sẽ được cho thuốc an thần, thuốc này chỉ cho trẻ uống dưới sự giám sát chặt chẽ của bác sĩ.


Những dấu hiệu thấp tim

Bệnh khởi phát là viêm họng cấp tính do liên cầu bêta nhóm A với các triệu chứng: niêm mạc thành sau họng và amidan sung huyết, đỏ rực, có thể có những chấm mủ trắng; Toàn thân sốt cao, dao động, da xanh, suy kiệt, nổi hạch góc hàm; Biểu hiện ở khớp: có khoảng 80% số trẻ em mắc bệnh thấp có tổn thương ở khớp. Tổn thương xuất hiện ở hầu hết các khớp, kể cả khớp háng.

Các biểu hiện thấp tim xuất hiện sau 2-4 tuần nhiễm liên cầu. Tổn thương cơ tim và màng trong tim là chủ yếu. Viêm cơ tim thường đồng thời với tổn thương màng trong tim và màng ngoài tim. Tổn thương phổ biến nhất của viêm nội tâm mạc là hở và hẹp van hai lá, hở van động mạch chủ. Bệnh cảnh nhiều khi rất nguy kịch: sốt cao, xanh tái, khó thở, tim đập rất nhanh, loạn nhịp, nguy cơ tử vong cao... Biểu hiện thần kinh là triệu chứng muộn của thấp tim, xuất hiện nhiều tuần hoặc nhiều tháng sau nhiễm liên cầu; đó là các vận động nhanh, không tự chủ, không định hướng, không mục đích, tăng lên khi xúc động, mất đi khi ngủ.

Biểu hiện ở da hiếm gặp, có thể có các hạt Meynet là những hạt cứng, đường kính từ 0,5-2cm dưới da, không dính vào da mà dính vào nền xương, vị trí thường gặp ở đầu gối, ấn không đau; Hoặc có các ban màu hồng hay vàng nhạt, đường kính 1-3cm, hình tròn, có bờ viền cao hơn mặt da, vị trí thường ở thân mình, gốc chi, không bao giờ ở mặt. Các hạt Meynet và ban vòng đỏ tồn tại một vài ngày đến một vài tuần rồi biến mất.

Bệnh có thể gây suy tim, phù phổi trong giai đoạn cấp dẫn tới tử vong. Những trường hợp nặng sẽ để lại biến chứng hẹp, hở van tim. 

Dấu hiệu ho của bệnh thấp tim.



Cách phòng bệnh thấp tim


Bệnh có thể hoàn toàn tránh được nếu điều trị tốt và đúng khi bị viêm họng. Trẻ viêm họng nên đi khám bác sĩ để được cho uống đúng thuốc kháng sinh và đủ thời gian. Những trẻ đã bị thấp tim rồi bắt buộc phải tái khám định kỳ mỗi 4 tuần để được cho tiêm chích hoặc uống thuốc phòng tái phát bệnh trong thời gian tối thiểu là 5 năm.

Những trẻ từng mắc bệnh thấp tim và có di chứng hẹp hở van tim phải giữ vệ sinh răng miệng, đánh răng sau mỗi bữa ăn để phòng ngừa nhiễm trùng răng có thể dẫn tới nhiễm trùng máu và nội mạc tim. Khi nhổ răng hoặc phải làm thủ thuật hay phẫu thuật phải thông báo cho bác sĩ biết có bệnh tim để được cho kháng sinh dự phòng trước.



Cần theo dõi bệnh thấp tim ở trẻ

Gia đình phải cho trẻ tái khám định kỳ mỗi 4 tuần, 3 hoặc 6 tháng tuỳ theo hướng dẫn của bác sĩ. Không nên bỏ tái khám vì bệnh sẽ tái phát và nặng lên nhiều. Khi trẻ sốt, đau sưng khớp, mệt, khó thở, phù, tiểu ít, gia đình nên đưa trẻ đến bệnh viện khám lại ngay.

 

NHƯ Ý (Tổng hợp)

Nguồn: Người đưa tin

Nên đọc

 

0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]