Các
ung thư này bao gồm các bệnh
bạch cầu và tiền hạch bạch cầu (còn
gọi là hội chứng loạn sản tủy), u tủy (và ung thư tương bào khác), ung thư hạch
bạch huyết. Trong
mỗi loại ung thư kể trên, có rất nhiều phân loại phụ.
Mỗi phân loại phụ có thể có những đặc tính khác nhau và tất nhiên là
điều trị khác nhau. Một số loại diễn tiến rất nhanh, trong khi ở một số loại khác, bệnh nhân có thể
có cơ hội chữa trị khỏi rất cao.
Dấu hiệu và triệu chứng
Trong khi những loại ung thư khác có những nguyên nhân và tiên lượng khác nhau, thì các triệu
chứng của ung thư máu có thể giống nhau: thiếu máu rất thường xảy ra, biểu hiện qua số lượng hồng
cầu giảm khi xét nghiệm máu, do tủy bị tổn thương; mệt mỏi, yếu sức, khó thở, chóng mặt, chán ăn;
xanh xao.
Bệnh nhân ung thư máu cũng thường hay bị nhiễm trùng, nên thường bị sốt tái đi tái lại và khó
kiểm soát. Thỉnh thoảng, các hạch bạch huyết sưng to, lách phình to làm bệnh nhân có cảm giác nặng
bụng.
Tình trạng xuất huyết thường xảy ra với bệnh nhân bệnh bạch cầu, biểu hiện là những vết bầm, chảy
máu lợi, chảy máu cam.
Nhận biết về bạch cầu
Nhiều người nghĩ rằng, bệnh bạch cầu là bệnh ung thư máu.
Điều này không sai, tuy nhiên, đối với các chuyên gia huyết học thì ung thư máu bao gồm ung thư
hạch (lymphoma), u tủy (Myeloma), bệnh bạch cầu (Leukemia), là những loại ung thư máu phổ biến
nhất.
Đầu tiên, những căn bệnh ung thư này xuất phát từ các mô và tế bào máu. Con người có những loại
tế bào máu khác nhau - hồng cầu, bạch cầu, huyết tương và tiểu cầu.
Ung thư bạch cầu được gọi là bệnh bạch cầu, xảy ra khi có sự
gia tăng bất thường của những tế bào
bạch cầu trong cơ thể. Ung thư các tế bào huyết tương gọi là u tủy. Ung thư hạch ám chỉ đến ung thư
tế bào bạch huyết của hệ thống
miễn dịch, nơi mà chúng biểu hiện là một khối u đặc.
Nên lưu ý rằng, nếu bạn có tiểu cầu cao trong máu, đó không phải là ung thư, mặc dù đây là vấn
đề của tủy xương. Tuy nhiên, 5% đến 10% những tế bào này có thể phát triển thành bệnh bạch cầu sau
nhiều năm.
Về cơ bản, có hai loại bệnh bạch cầu: cấp tính và mạn tính.
Đối với bệnh bạch cầu cấp tính, đặc trưng là sự gia tăng nhanh chóng về số lượng các tế bào máu
chưa trưởng thành. Do các tế bào này quá nhiều làm tủy xương không thể sản sinh các tế bào máu khỏe
mạnh. Các dạng cấp tính của bệnh bạch cầu rất phổ biến ở trẻ em.
Bệnh bạch cầu mạn tính với đặc điểm có quá nhiều mức tế bào tương đối trưởng thành, nhưng vẫn là
những tế bào bạch cầu không bình thường. Các tế bào này sinh sản ở tỉ lệ cao hơn nhiều so với tế
bào bình thường, kết quả là có nhiều tế bào bạch cầu bất thường trong máu.
Trong khi bệnh bạch cầu cấp tính phải được điều trị tức thì các dạng mạn tính đôi khi được theo
dõi một thời gian trước khi điều trị. Bệnh bạch cầu mạn tính thường xảy ra ở người lớn tuổi, nhưng
về mặt lý thuyết, có thể xảy ra ở bất cứ nhóm tuổi nào.
Ung thư máu bao gồm một nhóm
ung thư: Ung thư bạch cầu được gọi là bệnh bạch cầu, xảy ra khi có sự gia tăng bất thường của những
tế bào bạch cầu trong cơ thể. Ung thư các tế bào huyết tương gọi là u tủy.
Ung thư hạch ám chỉ đến ung thư tế bào bạch huyết của hệ thống miễn dịch, nơi mà chúng biểu hiện
là một khối u đặc. |
Có người cho rằng nhuộm tóc là một trong những nguyên nhân gây ra bệnh bạch cầu. Điều này không
đúng, nhưng có một số nguyên nhân gây ra bệnh bạch cầu như
bức xạ quá mức (ví dụ như tai nạn hạt
nhân) hoặc các hóa chất như benzene.
Thông thường, rất khó để xác định một nguyên nhân đặc biệt cho một cá nhân bị bệnh bạch cầu.
Bức xạ cũng được xác định là một yếu tố nguy cơ, nhưng dù điện thoại di động phát ra tia bức xạ
vẫn không có bằng chứng nào kết luận sóng điện thoại, điện tử hay đứng gần trạm điện sẽ tăng bạch
cầu.
Tuy nhiên, giảm sử dụng các thiết bị điện luôn được khuyến cáo. Mặt khác, bức xạ cũng là nguyên
nhân gây bệnh bạch cầu.
Marie Curie, người phát hiện ra phóng xạ và chết vì bệnh bạch cầu. Sự kiện hạt nhân giống như vụ
nổ bom Hiroshima và tai nạn Chernobyl dẫn đến gia tăng bệnh bạch cầu.
Một số
tiến bộ y khoa trong những năm gần đây đã tạo sự khác biệt trong việc điều trị các bệnh ung
thư máu, như
cấy ghép tế bào gốc, tuy nhiên, nhiều bệnh nhân không có cơ hội này vì không có người
hiến phù hợp. Cấy ghép tế bào gốc cũng khá rủi ro vì nó dẫn đến nhiều biến chứng và có nguy cơ tử
vong.
Những năm gần đây, những tiến bộ trong việc cấy ghép tế bào gốc máu cuống rốn làm tăng cơ hội
tìm kiếm người hiến. Những tiến bộ khác như kháng sinh và các yếu tố tăng trưởng tốt hơn cũng làm
cấy ghép tế bào gốc an toàn hơn.
Những tiến bộ khác bao gồm điều trị trúng đích với các chất ức chế tyrosine kinase và liệu pháp
miễn dịch bằng kháng thể đơn dòng có tác động rất lớn đến việc gia tăng tỉ lệ sống của bệnh nhân bị
bệnh ung thư máu.
AloBacsi.vn
Theo BS. TEO CHENG PENG - Doanh Nhân Sài Gòn