Thận trọng với kháng sinh nhóm penem

Trong danh mục thuốc kháng sinh (KS) đang sử dụng tại các bệnh viện hiện nay, nhóm carbapenem hay còn gọi là nhóm penem được xếp vào các thuốc KS dự phòng, chỉ được sử dụng khi nhiễm khuẩn rất nặng hoặc khi các KS khác bị vô hiệu hóa.

0

Trong danh mục thuốc kháng sinh (KS) đang sử dụng tại các bệnh viện hiện nay, nhóm carbapenem hay còn gọi là nhóm penem được xếp vào các thuốc KS dự phòng, chỉ được sử dụng khi nhiễm khuẩn rất nặng hoặc khi các KS khác bị vô hiệu hóa. Các thuốc KS nhóm này đều khá đắt tiền và được coi là vũ khí cuối cùng khi không còn sự lựa chọn nào khác để chống lại vi khuẩn.

Nhóm carbapenem gồm 4 kháng sinh: imipenem, meropenem, ertapenem và doripenem. Đây là những kháng sinh beta lactam có phổ kháng khuẩn rộng nhất hiện nay. Các kháng sinh thuộc nhóm này có vai trò nhất định trong điều trị bao vây cũng như điều trị theo mục tiêu những trường hợp nhiễm khuẩn nặng và đa đề kháng, đặc biệt là trường hợp đa đề kháng có liên quan đến trực khuẩn gram âm và những thuốc KS khác không hiệu quả hoặc không phù hợp.

Imipenem

Là một chất kháng sinh nhóm betalactam truyền theo đường tĩnh mạch được phát triển từ năm 1985. Imipenem thuộc về phân nhóm các carbapenem. Nó được chiết xuất từ hợp chất gọi là thienamycin, là chất do vi khuẩn Streptomyces cattleya tiết ra. Imipenem có phổ hoạt hóa rộng chống lại các vi khuẩn gram dương kỵ khí và ưa khí cũng như các vi khuẩn gram âm. Imipenem và các dược phẩm khác trong lớp carbapenem nói chung được nhắc đến như là các “viên đạn diệu kỳ”. Việc sử dụng chúng nói chung bị hạn chế nhằm tránh sự nhờn thuốc của vi khuẩn.

Penem gây độc tính trên hệ thần kinh trung ương.

Imipenem bị phân hủy nhanh chóng bởi enzym dehydropeptidase trong thận khi được chỉ định điều trị độc lập, vì thế nó luôn được chỉ định cùng với cilastatin để ngăn chặn sự khử hoạt tính này. Cilastatin là một hợp chất hóa học có tác dụng ức chế enzym dehydropeptidase ở người. Dehydropeptidase được tìm thấy trong thận và nó chịu trách nhiệm phân hủy thuốc kháng sinh imipenem. Vì thế, cilastatin được truyền theo đường tĩnh mạch cùng với imipenem nhằm bảo vệ imipenem khỏi tác động của dehydropeptidase để giúp nó tiêu diệt vi khuẩn. Tuy nhiên, bản thân cilastatin không phải là một chất kháng sinh.

Các hiệu ứng bất lợi chung của imipenem là buồn nôn và nôn. Người bị dị ứng với penicillin và các kháng sinh khác thuộc nhóm beta-lactam không nên dùng imipenem. Imipenem cũng có thể gây ra tai biến động kinh. Imipenem - cilastatin có liên quan đến độc tính trên hệ thần kinh trung ương, bao gồm sự thay đổi trạng thái tinh thần, rung giật cơ và đặc biệt là co giật. Những tác động này đặc biệt rõ rệt ở bệnh nhân có bệnh lý thần kinh trung ương hoặc suy thận. Không sử dụng imipenem để điều trị viêm màng não.

Meropenem

Có phổ kháng khuẩn tương tự như imipenem. Tuy nhiên, khác với imipenem, meropenem ổn định hơn với men dehydropeptidase ở thận, vì vậy có thể có tác dụng mà không cần kết hợp với cilastatin. Meropenem ít có nguy cơ gây động kinh hơn imipenem-cilastatin. Meropenem là carbapenem duy nhất được chấp thuận để điều trị viêm màng não. Các nghiên cứu cho thấy, meropenem có hiệu quả và an toàn hơn imipenem+cilastin trong những chỉ định khác, khả năng cảm ứng đề kháng thấp hơn. Nên nhớ là hai KS imipenem và meropenem được dùng để điều trị nhiễm khuẩn bệnh viện nặng và đa nhiễm khuẩn gây ra bởi nhiều chủng vi khuẩn đề kháng.

Ertapenem

Là một carbapenem thế hệ mới với phổ kháng khuẩn hẹp hơn so với imipenem hoặc meropenem. Ertapenem có tác động trên enterobacteriaceae và các vi khuẩn yếm khí, nhưng kém hơn so với các carbapenem khác trên P. aeruginosa, acinetobacter và các vi khuẩn gram dương, đặc biệt là vi khuẩn ruột và phế cầu kháng penicillin. Ưu điểm chính của ertapenem so với các carbapenem khác là thời gian bán hủy kéo dài và có thể được dùng một lần mỗi ngày. Ertapenem được chỉ định trong điều trị nhiễm khuẩn ổ bụng, nhiễm khuẩn phụ khoa và viêm phổi mắc phải trong cộng đồng.

Doripenem

Được Cơ quan Quản lý thuốc và Thực phẩm Mỹ (FDA) chấp thuận năm 2007 để điều trị nhiễm khuẩn đường tiểu dạng phức tạp và nhiễm khuẩn ổ bụng. Phổ kháng khuẩn tương tự như meropenem, mặc dù thử nghiệm cho thấy khả năng kháng P. aeruginosa dường như mạnh hơn meropenem. Cần hết sức cân nhắc khi sử dụng doripenem trong các trường hợp viêm phổi, nhiễm khuẩn huyết và các nhiễm khuẩn nặng khác.

Lưu ý khi sử dụng carbapenem cho trẻ em

 Imipenem được chấp nhận sử dụng cho trẻ em kể cả trẻ sơ sinh. Meropenem và ertapenem chỉ được chấp nhận sử dụng cho trẻ trên 3 tháng tuổi. Doripenem chỉ được chấp nhận sử dụng trên người lớn. Các penem nói chung theo quy định chỉ được sử dụng ở bệnh viện tuyến cuối. Cũng như các betalactam khác, chúng có thể gây tác dụng phụ nghiêm trọng như sốc phản vệ hoặc các hội chứng dị ứng nặng. Thuốc do Việt Nam sản xuất bằng nguồn nguyên liệu nhập ngoại cũng có giá hàng trăm nghìn đồng một đơn vị đóng gói. Vì vậy, việc sử dụng loại KS này cần hết sức thận trọng khi đã cân nhắc giữa hiệu quả điều trị và tính an toàn cũng như khả năng chi trả của người bệnh.

ThS. Lê Quốc Thịnh


0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]