Trẻ em luôn là đối
tượng dễ nhiễm bệnh nhất do sức đề kháng của cơ thể trẻ còn non yếu, đặc biệt là các bệnh
lý đường hô hấpp, trong đó, viêm phế quản̉n là bệnh thường gặp thuộc đường hô hấp dưới và
có thể dẫn đến những biến chứng nguy hiểm cho trẻ, nhất là trẻ nhỏ. Vì vậy, các bậc cha mẹ cần
có kiến thức để chăm sóc và theo dõi trẻ khi bị bệnh.
Điểm mặt virut gây viêm đường hô hấp
Tác nhân làm cho trẻ bị viêm đường hô hấp thường là do các virut, đứng hàng đầu là virut hợp bào
hô hấp (virut Respiratoire Syncytial, viết tắt là VRS), chiếm 30 - 50% trường hợp mắc bệnh.
Virut
này có 2 điểm đặc biệt: Có khả năng lây lan rất mạnh nên bệnh có khả năng xảy ra thành dịch; Người
lớn, trẻ lớn cũng có thể bị nhiễm RSV nhưng biểu hiện thường nhẹ.
Khi trẻ bị sốt cao, cần đưa trẻ tới cơ sở y tế để điều
trị.
Nếu trẻ sống trong vùng có dịch cúm, sởi thì tỷ lệ bị lây nhiễm rất cao do sức đề kháng ở cơ thể
trẻ còn quá yếu, nhất là trẻ tuổi bú mẹ mà không được bú đầy đủ sữa mẹ. Những trẻ từng bị ốm trước
đó như viêm mũi họng, viêm amidal, viêm VA... đều có nguy cơ dễ bị viêm phế quản nếu không được
chăm sóc tốt.
Các trường hợp trẻ bị bệnh tim bẩm sinh, sống trong môi trường hút thuốc lá thụ động,
bị bệnh phổi bẩm sinh hay bị suy giảm miễn dịch đều có nguy cơ cao mắc phải viêm tiểu phế quản.
Người ta cũng đề cập đến mối liên quan của viêm phế quản với bệnh hen. Sau khi bị viêm phế quản,
đường thở của trẻ sẽ trở nên nhạy cảm hơn và khoảng 1/3 trẻ bị viêm phế quản có thể diễn tiến thành
hen sau này.
Nhận biết trẻ mắc bệnh
Các bậc cha mẹ không được chủ quan khi thấy trẻ có những dấu hiệu như ho, chảy nước
mũi trong, sốt vừa hoặc cao. Khi mắc bệnh, các phế quản nhỏ này bị viêm, sưng phù, tiết nhiều dịch
làm cho đường thở của trẻ bị chít hẹp, thậm chí tắc nghẽn. Sau từ 3 - 5 ngày thì trẻ ho ngày một
nhiều, xuất hiện thở khó, thở rít.
Những trường hợp nặng thì tím tái, thậm chí ngừng thở. Những trẻ
đến viện khi thăm khám thường thấy nhịp thở của trẻ nhanh, sốt vừa, xuất hiện các cơn co kéo cơ hô
hấp, lồng ngực bị rút lõm, trẻ thở rên. Tiếng thở có thể nghe ran rít, ran ngáy, thông khí phổi
kém.
Sau đó, trẻ ho nhiều hơn kèm khò khè và có thể bị khó thở (thở nhanh hơn, thở co kéo lồng
ngực). Nặng hơn nữa, trẻ có thể bỏ bú, tím tái. Bệnh có triệu chứng tương tự hen suyễn. Thông
thường, trẻ sẽ khò khè kéo dài khoảng 7 ngày, ho giảm dần trong khoảng 14 ngày rồi khỏi hẳn nếu
được chăm sóc tốt.
Chăm sóc trẻ ra sao?
Nếu trẻ có dấu hiệu bệnh nhẹ, không có biến chứng (biến chứng thường gặp của bệnh là suy
hô hấp, viêm phổi (do dễ bị bội nhiễm), xẹp phổi, viêm tai giữa), không có yếu tố nguy cơ thì có
thể được chăm sóc tại nhà.
Tiếp tục cho trẻ bú hay ăn uống đầy đủ. Cần cho trẻ uống nhiều nước để
tránh thiếu nước. Cần làm thông thoáng mũi cho trẻ để giúp trẻ dễ thở hơn và bú tốt hơn. Có thể nhỏ
mũi với 2 - 3 giọt nước muối sinh lý, sau đó làm sạch mũi cho trẻ.
Cho trẻ dùng thuốc đúng như chỉ
dẫn của thầy thuốc. Tránh khói thuốc lá vì có thể làm bệnh của trẻ nặng hơn. Cần đi tái khám đúng
hẹn của bác sĩ. Khi trẻ có dấu hiệu nặng như khó thở, bú kém, tím tái, có biến chứng, cần cho
trẻ nhập viện để điều trị.
Đối với các thể thông thường, không có suy hô hấp thì ngay khi vào
viện, các bác sĩ sẽ tiến hành hút thông đường thở, giải phóng các chất xuất tiết. Dùng khí rung ẩm,
thuốc giãn phế quản kết hợp với lý liệu pháp hô hấp, vỗ rung, hút đờm.
Những trẻ sốt cao, nôn, thở
nhanh phải bù đủ dịch và điện giải theo nhu cầu cơ thể trẻ. Cần cho trẻ dinh dưỡng đủ chất và cân
nhắc cẩn thận trước khi sử dụng kháng sinh. Đối với những trường hợp nặng có suy hô hấp thì phải sử
dụng liệu pháp oxygen, hút thông đường hô hấp trên, dùng thuốc giãn phế quản đường khí dung ẩm,
truyền nước, điện giải theo nhu cầu cơ thể bù lượng thiếu hụt.
Nếu những biện pháp trên không cải
thiện tình trạng suy hô hấp thì phải tiến hành đặt nội khí quản và các biện pháp hô hấp hỗ trợ
khác. Chỉ sử dụng kháng sinh khi có biểu hiện viêm nhiễm thứ phát, không nên dùng steriod cho
trẻ.
Lời khuyên của thầy thuốc
Nhiều khuyến cáo nhấn mạnh rằng để phòng ngừa bệnh cho trẻ, các bà mẹ hãy cho trẻ bú
sữa mẹ đến 2 tuổi, không để trẻ bị lạnh, giữ cho môi trường sống của trẻ được trong lành.
Cần lưu ý
là bệnh có thể sẽ nặng hơn, kéo dài hơn, nhiều biến chứng hơn và tử vong cũng cao hơn trong các
trường hợp: trẻ dưới 3 tháng tuổi, trẻ sinh non - nhẹ cân, trẻ suy dinh dưỡng nặng, trẻ có sẵn bệnh
tim, phổi, suy giảm miễn dịch. Đây là những trẻ có yếu tố nguy cơ cần được cho nhập viện sớm khi bị
viêm phế quản.
AloBacsi.vn
Theo BS. Nguyễn Tiến Dũng - Sức khỏe và Đời sống