Mọi người đều biết ung thư là căn bệnh nan y, có tỷ lệ tử
vong cao, nhưng đến nay con người vẫn
quanh quẩn những liệu pháp truyền thống. Muốn có thuốc tốt, trước tiên phải
hiểu rõ về cơ chế hưởng ứng cấp phân tử với thuốc thì mới tạo được loại thuốc
đặc trị. Một trong những hướng đi mới trong việc tìm ra thuốc ung thư hiệu quả
cao là nhóm thuốc đi từ chất ức chế PARP.
Chất ức chế PARP là gì?
PARP (Poly ADP ribose polymerase hay PARP inhibitors) là chất
ức chế y học, một loại protein khối u lệ thuộc vào để tự sửa chữa khuyết tật,
hay nói cách khác PARP là một enzym đóng vai trò phục hồi tổn thương ADN và
ngăn chặn quá trình tự hủy của tế bào trong cơ thể. Khi cơ thể bị ung thư, các
tế bào tiếp quản cả chức năng này của PARP và lợi dụng nó để giúp cho khối u
phát triển. Nếu con người hiểu sâu được cơ chế nói trên hay lợi dụng PARP để
tiêu diệt tế bào ung thư sẽ có tác dụng chữa khỏi bệnh.
Theo các chuyên gia Trung tâm Nghiên cứu Protein Nordisk
(NFC) thuộc Đại học Copenhagen, Đan Mạch - nơi đang thực hiện dự án sản xuất
thuốc đi từ chất ức chế PARP cho biết, nếu hiểu kỹ cơ chế nói trên, trong tương
lai con người sẽ cho ra đời một thế hệ thuốc chữa ung thư mới đầy hứa hẹn.
Trong nghiên cứu, NFC đã tìm ra một phương pháp mới để xác định các loại prtein
này khi chúng được tăng cường ADP-ribossylation. Phương án tăng cường sinh học
tác động tới khả năng chỉnh sửa ADN bị tổn thương. Kết quả bước đầu vừa công bố
trên tạp chí Molecular Cell.
Điều trị ung thư bằng PARP sẽ diễn ra như thế nào?
Theo GS. M. Nielsen, Chủ nhiệm Dự án Nghiên cứu protein ở
FNC, thì phần lớn những ca ung thư đều dẫn đến tử vong, nhưng nếu dùng chất ức
chế PARP, đặc biệt là cho những căn bệnh ung thư mang tính di truyền như ung
thư vú và ung thư buồng trứng sẽ mang lại kết quả rất cao, kéo dài tuổi thọ cho
người bệnh. Tuy nhiên, việc điều trị bằng chất ức chế PARP không đơn giản bởi
phải hiểu rõ chức năng sinh học của PARP. Thông thường, hệ ADN của con người
hàng ngày phơi ra môi trường dễ bị tổn thương nhưng tế bào khỏe mạnh của cơ thể
lại có khả năng khắc phục những nhược điểm này và giữ cho ADN luôn luôn ở trạng
thái khỏe mạnh, trong khi đó khả năng sửa chữa ADN của một số tế bào ung thư
lại rất hạn chế. Vì vậy, người ta mới nghĩ đến giải pháp sử dụng chất ức chế
PARP cho việc phong bế quá trình sửa chữa tế bào của các khối ung thư cho dù
chất ức chế PARP lại làm tổn thương các tế bào ung thư lẫn tế bào khỏe mạnh.
Trong thực tế, các tế bào khỏe mạnh có cơ chế tồn tại khác với các tế bào ung
thư nên chất ức chế PARP có tác dụng "lợi nhiều hơn hại" trong việc
trị bệnh ung thư. Giải pháp điều trị ung thư bằng chất ức chế PARP được gọi là
điều trị có mục tiêu, lợi dụng sự suy yếu của tế bào ung thư để tiêu diệt chính
tế bào ung thư, làm cho chúng mất khả năng di căn.
Cho đến nay, đã có nhiều sản phẩm được ra đời từ chất ức chế
nhưng phần lớn là mang tính thử nghiệm. Trong các phép thử nghiệm này, người ta
dùng cả các loại thuốc được sản xuất từ PARP kết hợp với các liệu pháp truyền
thống như hóa trị liệu và chiếu xạ cho nhóm bệnh nhân ung thư vú và buồng
trứng. Phương pháp chiếu xạ bản thân nó để lại nhiều phản ứng phụ nhưng nếu
dùng kết hợp với chất ức chế thì giảm được đáng kể những phản ứng phụ nói trên
và tăng cường hiệu quả, giúp người bệnh kéo dài tuổi thọ. Trong thử nghiệm, các
nhà khoa học đã cho bệnh nhân chiếu xạ và dùng các thành phần hóa chất, sau đó
xuất hiện tình trạng ADN trong tế bào bị tổn thương. Tiếp tục cách ly lấy
protein, tăng cường với ADP-ribosylation và phát hiện được cơ chế này để xác
định danh tính của protein và các vị trí các hóa chất diễn ra. Nhờ
ADP-ribosylation, các nhà khoa học biết được mức độ sửa chữa ADN của tế bào và
nếu không có ADP-ribosylation thì tế bào ung thư không thể tồn tại được. Bằng
việc ức chế protein PARP thông qua ADP-ribosylation, người ta có thể chặn đứng
cơ chế tự sửa chữa nói trên của tế bào ung thư.
Sản phẩm thuốc đi từ chất ức chế PARP
Như trên đã đề cập, ngoài dự án của FNC, hiện nay một số nơi
người ta đã sản xuất được loại thuốc này. Tiên phong có sản phẩm mang tên thuốc
iniparib do Trung tâm Ung thư Texas Oncology-Baylor Charles A. Sammons sản xuất
thử nghiệm. Loại thuốc này có thể kéo dài gần gấp đôi thời gian sống của bệnh
nhân ung thư vú giai đoạn toàn phát. Iniparib vừa được thử nghiệm ở 120 bệnh
nhân ung thư vú giai đoạn di căn kết hợp với hóa trị liệu. Kết quả, iniparib đã
kéo dài thời gian sống cho người bệnh thêm gần 5 tháng, từ mức bình quân 7,7
tháng lên 12,3 tháng. Lợi thế khác của iniparib là làm teo khối u, giảm chậm
quá trình tiến triển bệnh và nhiều tác dụng khác có lợi cho người bệnh so với
nhóm dùng liệu pháp truyền thống bằng hóa trị liệu. Thuốc iniparib hiện đang
được thử nghiệm ở giai đoạn 3. Ngoài trị ung thư vú, iniparib có thể áp dụng
cho các bệnh nhân khác như ung thư phổi và ung thư buồng trứng.
(Theo Telegraph/NKD)
Khắc Nam