Bệnh hen (suyễn) và bệnh phổi
tắc nghẽn mãn tính là những bệnh mãn tính về đường hô hấp, với số lượng người
mắc bệnh rất nhiều. Các bệnh này thường gặp ở các nước đang phát triển do tình
trạng môi trường bị ô nhiễm bởi bụi, khói... và số lượng người hút thuốc tăng
cao.
Bệnh hen (asthma)
Người mắc bệnh hen thường có
triệu chứng khò khè, ho, tức ngực, khó thở… Bệnh thường khởi phát ở tuổi ấu
thơ, tiến triển thành từng đợt.
Có rất nhiều nguyên nhân gây
bệnh như:
- Dị ứng (có thể dị ứng với
môi trường, dị ứng với các loại thuốc như: aspirin, NSAID…).
- Viêm phổi do nhiễm trùng đường hô hấp.
- Tiếp xúc với không khí
lạnh.
- Do tập thể dục, thể thao
quá sức.
Dưới tác động của một trong
các nguyên nhân này, cơ trơn của phế quản co thắt lại, thành phế quản sưng lên
và tiết dịch nhầy khiến sự lưu thông không khí bị cản trở.
Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính
(COPD)
Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính
là một bệnh lý bao gồm bệnh viêm phế quản mãn tính (Chronic Brochitis) và bệnh
khí phế thũng (Emphysema). Người bệnh cũng có các triệu chứng khò khè, hơi thở
ngắn, khó thở, tức ngực, ho, có đờm vàng…
Nguyên nhân gây bệnh:
- Hút thuốc là nguyên nhân
hàng đầu.
- Sự tiếp xúc lâu ngày với
các chất kích ứng phổi: bụi, khói hóa chất dộc hại như thợ mỏ, công nhân hóa
chất rất dễ mắc phải căn bệnh này.
Khi ta hít vào, không khí sẽ
từ khí quản đi xuống phế quản (chia làm hai nhánh: phế quản phải và phế quản
trái), tiếp tục đi xuống tiểu phế quản (những nhánh nhỏ của phế quản), rồi đi
đến phế nang (túi khí tận cùng của tiểu phế quản). Ở các phế nang, khí oxy sẽ
đi vào các mao mạch bao quanh phế nang. Và đồng thời khí cacbonic sẽ từ mao
mạch đi vào phế nang, rồi được thở ra ngoài. Đây là quá trình trao đổi khí tự
nhiên trong cơ thể. Ở người mắc bệnh COPD, do thành phế nang bị tổn thương bởi
áp lực lớn của tình trạng viêm nhiễm lâu ngày, quá trình trao đổi khí này mất
cân bằng, dẫn đến tình trạng thiếu oxy cho cơ thể.
Thuốc xịt
Thuốc xịt là dạng thuốc chủ
yếu dùng trong điều trị bênh suyễn và bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính do hiệu quả
cao, dễ sử dụng và ít tác dụng phụ so với các dạng thuốc khác.
Thuốc xịt là dạng thuốc đã
được định liều (Metered Dose Inhaler: MDI) và tùy theo thành phần thuốc ta có
các loại thuốc xịt như sau:
Thuốc xịt chứa chất chủ vận
2: kích thích thụ thể 2 trên cơ trơn phế quản gây giãn phế quản, giúp cho thông
khí dễ dàng, hồi phục hô hấp. Dạng thuốc này làm giảm các cơn khó thở xảy ra
đột ngột và được chia làm 2 nhóm:
- Nhóm tác động ngắn hạn: gồm
có Salbutamol, Terbutalin…
- Nhóm tác động dài hạn: gồm
có Salmeterol, Formoterol…
Tác dụng phụ gồm có run cơ,
vọp bẻ, nhức đầu, buồn nôn và tim đập nhanh…
Khi sử dụng thuốc xịt, người
bệnh phải dùng thuốc đều đặn và đúng số nhát xịt mà bác sĩ chỉ định, không nên
tự ý tăng giảm liều hay đột ngột dừng thuốc. |
Thuốc xịt chứa chất kháng
cholinergic: tác động bằng cách ức chế acetylcholin gây giãn phế quản và giảm
tiết dịch nhầy. Dạng thuốc này thường được sử dụng thay thế cho những bệnh nhân
bị tác dụng phụ với thuốc chủ vận 2 và được chia làm 2 nhóm:
- Nhóm tác động ngắn hạn:
Ipratropium.
- Nhóm tác động dài hạn:
Tiotropium.
Thuốc xịt chứa
corticosteroid: tác động kháng viêm lên đường hô hấp, giúp phế quản không còn
bị hẹp do viêm nhiễm và giảm sự tổn thương ở phổi. Việc sử dụng lâu ngày sẽ
mang lại nhiều ưu điểm sau:
- Quản lý và kiểm soát sự ổn
định của bệnh.
- Giới hạn những tác dụng phụ
nguy hiểm như: cao huyết áp, phù, tăng nhãn áp…
Thuốc xịt chứa các chất kết
hợp: trong thành phần của thuốc là sự kết hợp các chất với nhau để tăng hiệu
quả điều trị hoặc có tác dụng 2 trong 1: vừa phòng ngừa, vừa điều trị bệnh.
DS. MAI XUÂN DŨNG