Anh Hùng, 35 tuổi, ở Đống Đa, Hà Nội, bị nhiệt miệng gần 2 năm. Thời
gian đầu khoảng vài tháng anh bị nhiệt miệng một lần nhưng sau khoảng
cách giữa các lần bị cứ rút ngắn dần và vết loét cũng lâu khỏi hơn.
Có đợt vết loét ở lưỡi của anh tới 2 tháng mới khỏi và nhiều vết loét
mới lại thế chỗ... Đi khám bác sĩ đâu đâu cũng kết luận rằng anh Hùng
bị chứng nhiệt miệng, viêm nhiễm khoang miệng...
Ròng rã hàng năm trời uống thuốc nam, thuốc bắc rồi lại thuốc tây,
những món khoái khẩu như đồ cay, bia rượu, thuốc lá anh Hùng cũng từ bỏ
hoàn toàn nhưng bệnh chẳng những không khỏi mà còn nặng thêm.
Nghi ngờ
bị ung thư khoang miệng, anh Hùng đã đến khám tại Bệnh viện K (Hà Nội).
Tại đây sau khi thăm khám, các bác sĩ phát hiện anh bị ung thư bờ lưỡi -
một dạng của ung thư khoang miệng.
Một trường hợp ung thư khoang miệng được phát hiện khi đã xuất hiện khối u ở lưỡi
Bệnh từ những thói quen
Ung thư khoang miệng là một trong 10 bệnh ung thư thường gặp nhất ở
VN. Hằng năm, số lượng bệnh nhân mới ung thư khoang miệng tới 20.000,
chiếm từ 6% - 15% tổng số các loại ung thư.
Tuy là loại ung thư dễ dàng
quan sát được nhưng phần lớn bệnh nhân ung thư khoang miệng lại đến khám
ở giai đoạn muộn, khi tổn thương ung thư đã lan rộng. Bệnh dễ bị bỏ qua
bởi những tổn thương khiến người bệnh lầm tưởng họ chỉ bị những viêm
nhiễm vùng miệng đơn giản.
Theo thống kê của Hội Ung thư đầu cổ Hoa Kỳ, có 22.000 ca ung thư
khoang miệng mới mắc hằng năm và khoảng 6.000- 7.000 ca tử vong vì căn
bệnh này. Tỉ lệ sống thêm 5 năm của ung thư khoang miệng là 70% đối với
bệnh nhân giai đoạn I và II. Tỉ lệ này giảm xuống còn 50% với bệnh nhân
giai đoạn III và chỉ còn 35% đối với bệnh nhân giai đoạn IV.
Theo thống kê, tổn thương tiền ung thư hay gặp là các loại bạch sản
(có màu trắng nhạt, sùi hoặc phẳng, không mất khi gạt, thường nằm ở mặt
trong má, lưỡi, lợi) và hồng sản (mảng có màu đỏ hoặc hồng). Trong khi
đó, bạch sản có nguy cơ trở thành u ác tính là 6% và tỉ lệ ung thư hóa ở
hồng sản chiếm hơn 30%.
Trước đây tỉ lệ mắc bệnh ở nam giới cao hơn nữ giới nhưng những năm
gần đây, tỉ lệ này tương đương nhau. Tuổi dễ mắc ung thư khoang miệng là
từ 45 - 60.
Rượu, thuốc lá, ăn trầu được xem là những yếu tố nguy cơ dẫn đến ung
thư khoang miệng. Khi uống rượu, nhất là các loại rượu mạnh có thể gây
phỏng niêm mạc miệng. Các tổn thương này tiến triển đến một mức độ nào
đó thì sẽ trở thành ung thư. Tình trạng vệ sinh răng miệng kém cũng được
coi là nguyên nhân gây loại ung thư này.
Ngoài ra, một số yếu tố nguy cơ khác như nhiễm virus Herpes, HPV
(Human Papilloma Virus), thiếu máu Fanconi... cũng được cho là có liên
quan đến ung thư khoang miệng.
Ung thư khoang miệng thường gặp hơn cả là ung thư lưỡi, ung thư niêm mạc má và ung thư môi.
Khó phát hiện bệnh
Hầu hết các bệnh nhân bị ung thư miệng không có cảm giác đau ở giai
đoạn sớm nên bệnh nhân thường chủ quan và không đi khám. Có nhiều triệu
chứng để nhận biết ung thư khoang miệng trong đó thường gặp nhất là
những vết loét không liền ở lưỡi, sàn miệng hoặc niêm mạc má. Các vết
loét này có thể đau, chảy máu nhưng có trường hợp lại không gây khó chịu
gì.
Khi tổn thương lớn lên mới xuất hiện thêm nhiều triệu chứng như nuốt
đau, tai đau, thay đổi giọng nói, không phối hợp được động tác nuốt hoặc
xuất hiện hạch cổ. Người bệnh có những tổn thương bị tái phát nhiều lần
trong miệng, xuất hiện một điểm sưng tấy hoặc nổi một u ở bất kỳ điểm
nào trong miệng hoặc ở cổ.
Vì thế khi phát hiện một vết loét ở trong miệng dù cho có liên quan
với chấn thương hay bệnh viêm loét miệng nếu sau 3 tuần không khỏi, nên
tìm đến bác sĩ chuyên khoa ung thư hoặc các bác sĩ tai - mũi - họng,
răng hàm mặt để khám xác định bệnh. Ung thư khoang miệng khi được phát
hiện và điều trị sớm sẽ mang lại hiệu quả cao.
Bỏ rượu và thuốc lá để giảm nguy cơ ung thư
Khoảng 75% - 90% trường hợp bị ung thư khoang miệng là do hút thuốc
và uống rượu. Tổ chức niêm mạc miệng dễ bị nguy cơ thoái hóa ác tính,
hay gặp nhất là bạch sản niêm mạc miệng, tần suất mắc gấp 6 lần người
không hút thuốc. Nếu ngừng hút thuốc sau 5 - 6 năm thì nguy cơ ung thư
khoang miệng sẽ gần như bằng với người không hút thuốc.
Theo Người lao động