Công dụng chữa bệnh của ngũ bội tử

Ngũ bội tử vị chua tính bình vào 3 kinh phế, thận và đại trường. Có tác dụng liễm phế, giáng hỏa chỉ huyết, liễm hãn, sáp trường. Dùng chữa phế hư sinh ho.

0

Ngũ bội tử

Ngũ bội tử còn gọi là bầu bí, măc piêt, bơ pật (Thái). Theo Nông nghiệp Việt Nam, đây là những túi đặc biệt do nhộng của con sâu Ngũ bội tử (Melaphis chinen sí (Bell) Baker) ký sinh trên những cuống lá và cành của cây muối tạo thành nên còn gọi là tổ trùng muối hay Diêm phụ mộc có nhiều loại với tên thực vật khác nhau, thuộc họ đào lộn hột (Anacardiaceae). Là vị thuốc được ghi đầu tiên trong sách Bản Thảo Thập di.

Ở nước ta Ngũ bội tử mới phát hiện thấy có ít tại các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái và một số tỉnh của Tây Bắc, dọc vùng biên giới Việt Trung.

Mô tả cây muối hay diêm phu mộc

Theo Sức khỏe và đời sống, cây muối là một cây nhỏ cao từ 2 - 8m. Lá mọc so le, gồm 7 - 14 lá chét. Cuống lá chung có dìa như cánh, trên có những lông ngắn màu vàng nâu nhạt. Lá chét không cuống hình trứng mép có răng cưa to, thô, dài 5 - 14cm, rộng 2,5 - 9cm. Cụm, hoa hình chùy mọc ở đầu cành, dài 20 - 30cm. Hoa nhỏ màu trắng sữa. Quả hạch màu vàng cam đỏ, một hạt. Mùa hoa các tháng 8 - 9, mùa quả tháng 10.

Khi cành non và cuống lá cây này bị một giống sâu đục thì sẽ xuất hiện những chỗ sùi lên hình dạng khác nhau dài từ 3 - 6cm, khi thì giống quả trứng nhỏ, khi thì lại có nhiều nhánh. Trên mặt cò lông mịn ngắn màu xám nhạt, có chỗ màu đỏ nâu.

Khi bẻ ta thấy thành dày 1 - 2mm cứng bóng như sừng. Trong có những lông nhỏ trắng như sợi lenvà mảnh con sâu. Những chỗ sùi này đựơc gọi là bầu bí (tiếng Kinh), măc piêt (tiếng Thồ Cao Bằng)

Phân bố thu hái và chế biến

Ở nước ta, ngũ bội tử chỉ mới có nhiều ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang, Lào Cai chỉ có một ít. Có thể một số vùng Tây Bắc gần biên giới Việt Trung cũng có.

Tại nhiều nước khác như: Nhật Bản, Trung Quốc (Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam…) cũng có. Vào khoảng tháng 5 - 6 con sâu ngũ bội tử (sâu cái) từ những cây trung gian hay đến cây muối hay diêm phu mộc, chích vào cành non và lá cây này rồi đẻ trứng. Có thể do những chất kích thích tố đặc biệt của trứng và sâu non, những tế bào của cây páht triển đặc biệt bất thường thành ngũ bội.

Vào khoảng tháng 9 người ta hái về, hấp nước sôi từ 3 - 5 phút để giết chết con sâu ở trong rồi phơi khô là được.Trước đây, hàng năm nước ta có thể sản xuất tới 30 - 40 tấn để xuất, nhưng sau chiến tranh lượng sản xuất có giảm sút và chưa được phục hồi đúng mức.

Công dụng và liều dùng

Theo tài liệu cổ ngũ bội tử vị chua tính bình vào 3 kinh phế, thận và đại trường. Có tác dụng liễm phế, giáng hỏa chỉ huyết, liễm hãn, sáp trường. Dùng chữa phế hư sinh ho, lỵ lâu ngày lòi dom, nhiều mồ hôi, mụn nhọt.

Ngũ bội tử được dùng làm thuốc thu liễm trong bệnh đi ỉa lỏng, lỵ xuất huyết, hoàng đản, giải độc.Còn là nguyên liệu chế tanin dùng thuộc da loại màu sáng, chế mực viết, nhuộm màu đen…

Liều dùng: ngày uống 0,5 -1g, dưới dạng thuốc sắc hay thuốc bột. Dung dịch 5 -10% dùng súc miệng để điều trị các vết loét trong miệng.

Đơn thuốc có ngũ bội tử

Chữa đau bụng đi ỉa lỏng: ngũ bội tử tán bột thêm vào hồ vào, viên thành viên bằng hạt đậu xanh ngày uống 15 - 20 viên, dùng nước pha bạc hà mà uống thuốc.Trẻ con đái dầm: ngũ bội tử giã nhỏ. Thêm nước cho dính, đắp vào rốn.

Trẻ con bị trớ: ngũ bội tử 3g, một nửa để sống, một nửa nướng chín, trích cam thảo 20g. tất cả tán nhỏ. Mỗi lần dùng 2g bột này, dùng nước cơm hay nước cháo mà chiêu thuốc.

Tham khảo thuốc: Vitamin B9

Acid folic rất cần thiết cho rất nhiều các phản ứng sinh lý. Đặc hiệu hơn, acid folic cần thiết cho việc tổng hợp DNA và do đó đóng vai trò thết yếu trong quá trình phân chia tế bào. Nó còn tham gia vào quá trình sản xuất các acid amin không thiết yếu như methionine và glycin.

Tú Liên

Nên đọc

Theo GĐVN

0--1

Liên hệ xóa tin: [email protected]