Phẫu thuật sớm, sống lâu hơn
Ung thư tuỵ là bệnh lý ác tính khó phát hiện sớm, tiên lượng sống năm năm rất thấp. Tại Mỹ, phẫu thuật có thể trị khỏi ung thư này, nhưng không may là bệnh thường được chẩn đoán vào giai đoạn trễ, chỉ 15 – 20% bệnh nhân còn mổ được với tiên lượng rất xấu. Sống còn năm năm khoảng 25 – 30% khi hạch chưa bị di căn, và chỉ còn 10% khi đã có di căn hạch.
Hiện cách điều trị gồm các phối hợp đa mô thức: phẫu trị – hoá trị – xạ trị. Trong đó, phẫu thuật được chỉ định khi bệnh còn khu trú tại chỗ và ở giai đoạn sớm. Khi bệnh đã tiến xa hoặc di căn (di căn gan, lan tràn trong ổ bụng, bụng có dịch báng, đã có hạch trên đòn trái), là chống chỉ định mổ. Phẫu thuật thường được thực hiện gồm cắt khối tá tuỵ tiêu chuẩn (phẫu thuật Whipple), phẫu thuật có tính rộng lớn như phải cắt bỏ phần đầu tuỵ và khối bướu, cắt bỏ túi mật, cắt bỏ phần dưới của dạ dày và toàn bộ khung tá tràng, sau đó tái lập sự lưu thông của đường mật và dịch tuỵ.
Loại phẫu thuật thứ hai là cắt khối tá tuỵ biến đổi, phương pháp này có sự khác biệt là giữ lại cơ vòng môn vị. Khi bệnh đã ở vào giai đoạn muộn, thể trạng bệnh nhân suy sụp kèm theo vàng da vàng mắt (do bị tắc mật bởi khối bướu ở đầu tuỵ). Bệnh nhân được các bác sĩ thực hiện nội soi dạ dày và qua đó sẽ đặt một ống thông (stent) vào trong đường mật, hoặc được phẫu thuật nối thông mật – ruột, hoặc mở túi mật ra da nhằm giảm ứ mật trong gan.
Hoá trị hỗ trợ hay xạ trị hỗ trợ, hoặc kết hợp hoá/xạ trị có thể cải thiện thời gian sống còn cho bệnh nhân. Hiện nay, điều trị hỗ trợ sau mổ với sự kết hợp giữa các thuốc đặc trị ung thư cùng tia phóng xạ, cho thấy thời gian sống còn của bệnh nhân kéo dài hơn.