Khoảng 1/3 số bệnh nhân (BN) VKDT xuất hiện bệnh sau tuổi 60. Nữ thường mắc bệnh hơn so với nam giới.
Có thể gây tàn phế
Chị Võ Kim Thoa (50 tuổi, tỉnh Đồng Tháp) suốt ba tháng nay bị sốt,
sưng hai chân, tay không thể nắm, không giơ lên được, đặc biệt là vào
những buổi sáng. Sau khi đi khám nhiều nơi, tại phòng khám Dị ứng - miễn
dịch (BV ĐH Y Dược TP.HCM), chị được chẩn đoán bị viêm đa khớp.
Theo BS Cao Thanh Ngọc (BV ĐH Y Dược TP.HCM), một số BN có rất nhiều
khớp bị đau, sưng. Biểu hiện ở các khớp nhỏ (bàn tay, ngón tay, cổ tay)
và chi dưới. Bệnh còn kèm theo sốt, cứng khớp, không nắm chặt được. Cơn
cứng khớp có thể kéo dài từ 30 phút đến một giờ.
Nếu không được điều trị sớm và đầy đủ, bệnh có thể bị phá hủy, biến
dạng khớp và tàn phế nặng nề. Tổn thương phá hủy khớp có thể xuất hiện
rất sớm trong quá trình của bệnh. BS Ngọc cảnh báo: “Khoảng 30% BN có
biểu hiện bào mòn xương tại thời điểm chẩn đoán và tỷ lệ này có thể tăng
lên 60% trong vòng hai năm.
Việc chẩn đoán VKDT chủ yếu dựa trên bệnh
cảnh lâm sàng, với sự hỗ trợ của các xét nghiệm huyết thanh tìm các tự
kháng thể như yếu tố dạng thấp. Điểm cốt yếu trong điều trị là phải sử
dụng sớm các thuốc điều trị cơ bản đặc biệt là methotrexate, và liệu
pháp mới nhất là điều trị sinh học".
Trên phạm vi toàn cầu, tỷ lệ lưu hành của bệnh ước tính vào khoảng
0,8% dân số người lớn. Tại Việt Nam, theo một nghiên cứu tại miền Bắc,
tỷ lệ này vào khoảng 0,28% dân số. Nghiên cứu về tình hình bệnh tật tại
Khoa Cơ xương khớp (BV Bạch Mai), bệnh VKDT chiếm tỷ lệ 21,94% trong số
các bệnh lý cơ xương khớp, trong đó nữ chiếm 92,3%, đa số BN nữ trong độ
tuổi 36-65 (72,6%).
Dấu hiệu chủ yếu của viêm khớp sớm trong VKDT là đau và sưng khớp.
Khớp viêm có thể sưng, nóng, song thường ít tấy đỏ. Tình trạng viêm khớp
được cho là đang hoạt động nếu đau khi sờ nắn hoặc khi vận động khớp
thụ động. Sưng khớp có thể là sưng nề phần mềm quanh khớp hoặc sưng tại
khớp.Sưng tại khớp thường kèm theo các dấu hiệu của tràn dịch khớp.
Di truyền chiếm 50%
Đau, sưng khớp có tính chất đối xứng, lan tỏa, ảnh hưởng tới các khớp
nhỏ là những triệu chứng thường gặp nhất. Các triệu chứng này thường đi
kèm với tình trạng cứng khớp buổi sáng, kéo dài thường trên một giờ và
mệt mỏi toàn thân. Viêm khớp trong VKDT thường không gây sốt hoặc chỉ
sốt nhẹ trong đợt tiến triển.
Nguyên nhân của VKDT vẫn chưa được hiểu biết đầy đủ. Sự xuất hiện của
bệnh được cho là do sự tương tác giữa các yếu tố di truyền, môi trường,
hormone, miễn dịch và nhiễm trùng. Các yếu tố về kinh tế xã hội, tâm lý
và lối sống (chẳng hạn vấn đề hút thuốc lá, uống cà phê, tiếp xúc
silicon) có thể ảnh hưởng. Một số nghiên cứu cho thấy, bệnh có thể khởi
phát sớm hơn ở những người hút thuốc lá.
BS Ngọc cho biết: “Yếu tố di truyền có thể chiếm tới 50% nguy cơ mắc
bệnh VKDT. Các nghiên cứu về sinh đôi và gia đình cho thấy anh chị em
của BN VKDT có nguy cơ bị VKDT tăng hai-bốn lần so với những người không
có quan hệ huyết thống. Nhiều tác nhân nhiễm khuẩn cũng liên quan đến
sự xuất hiện của bệnh VKDT, trong đó có các vi khuẩn mycoplasma, virus
Epstein-Barr, Rubella...”.
BN cần tuân thủ tái khám định kỳ và dùng thuốc đều đặn, thường xuyên.
Trong chế độ ăn uống, sinh hoạt, BN nên tăng cường các axít amin thiết
yếu, chế độ ăn giàu rau quả, cá, hạn chế thịt và mỡ động vật, ngưng hút
thuốc lá.
Song song với điều trị nội khoa, BN cần chú ý tập luyện thường xuyên
trong khả năng, có thể kết hợp với các phương pháp phục hồi chức năng
giúp tăng cường sức khỏe nói chung, cải thiện vận động khớp, hạn chế teo
cơ, cứng, dính khớp.
Các phương pháp vật lý trị liệu, châm cứu và các
phương pháp điều trị y học cổ truyền khác có thể có ích trong việc hỗ
trợ cải thiện triệu chứng, cải thiện chức năng vận động khớp; tuy nhiên
nhìn chung không thể thay thế điều trị nội khoa.