Buồng trứng là một trong các cơ quan sinh dục của người phụ nữ có
chức năng phóng noãn và tiết ra các chất nội tiết (estrogen, progesteron) từ lúc dậy thì cho đến
tuổi mãn kinh. Ung thư buồng trứng là khối u ác tính của buồng trứng, một trong những ung thư gây
tử vong hàng đầu ở phụ nữ. Ở Việt Nam, ung thư buồng trứng đứng hàng thứ ba sau ung thư cổ tử cung
và ung thư vú.
Càng lớn tuổi càng dễ mắc
Nguyên nhân gây ung thư buồng trứng vẫn chưa được biết rõ nhưng nếu
trong gia đình đã có người bị mắc (mẹ, chị em gái hoặc con gái) thì nguy cơ mắc bệnh của bạn là 5%.
Những phụ nữ dễ bị ung thư buồng trứng nữa, gồm: Không sinh hay vô sinh, có tiền sử dùng thuốc kích
thích phóng noãn để điều trị vô sinh.
Ung thư buồng trứng có thể gặp ở mọi lứa tuổi nhưng càng lớn tuổi
thì nguy cơ mắc bệnh càng cao, nhất là những phụ nữ sau mãn kinh. Bị béo phì ở thời trẻ cũng sẽ
tăng nguy cơ bị ung thư buồng trứng sau tuổi mãn kinh.
Dấu hiệu nhận biết
Ung thư buồng trứng ở giai đoạn sớm thường diễn biến âm thầm, không
có dấu hiệu đặc biệt. Tuy nhiên, nếu có những biểu hiện sau đây thì hãy gặp ngay bác sĩ phụ khoa để
được khám và phát hiện bệnh sớm: Rối loạn kinh nguyệt, đau hoặc nặng ở vùng bụng dưới, đau khi quan
hệ vợ chồng, rối loạn tiểu (tiểu khó, són tiểu), mệt mỏi kéo dài, giảm cân, chán ăn, rối loạn tiêu
hóa (đầy bụng, khó tiêu, đại tiện táo hoặc tiêu chảy).
Rối loạn tiêu hóa có liên quan đến ung thư buồng trứng,
bởi khối u buồng trứng chèn ép vào các cơ quan tiêu hóa như đại trực tràng gây các triệu
chứng rối loạn tiêu hóa.
Trường hợp u Krukenberg là một ung thư buồng trứng di căn từ dạ dày hoặc
trực tràng thì rối loạn tiêu hóa cũng là những biểu hiện đầu tiên thường gặp. Ở giai đoạn muộn, các
dấu hiệu trên sẽ kéo dài và nặng hơn, thậm chí sờ được khối u ở vùng bụng dưới, có nhiều trường hợp
khối u to choán hết toàn bộ vùng bụng.
Chẩn đoán và điều trị
Để phát hiện khối u ở buồng trứng, bác sĩ sẽ khám âm đạo
(nếu bạn đã có quan hệ tình dục) hoặc thăm khám qua hậu môn (nếu bạn chưa có quan hệ tình dục).
Việc đánh giá kích thước khối u buồng trứng, khả năng di động của u, mức độ lan tỏa ra các cơ quan
khác của vùng chậu hay ổ bụng là rất quan trọng để đánh giá tiên lượng sau này.
Siêu âm, chụp
X-quang tim phổi, CT scan (chụp cắt lớp vi tính) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) ổ bụng giúp bác sĩ
lâm sàng đánh giá chính xác hơn.
Thông thường, khi phát hiện khối u ở buồng trứng thì ngoài các
xét nghiệm đã nêu, bác sĩ sẽ làm xét nghiệm CA 125 trong máu. Tuy nhiên, chất này có thể tăng trong
một số bệnh lý khác như lạc nội mạc tử cung, nhiễm trùng nên mang tính đặc hiệu không cao, do
đó sẽ không có giá trị nhiều trong chẩn đoán nhưng lại có giá trị tiên lượng rất tốt.
Điều trị ung thư buồng trứng bao gồm sự kết hợp phẫu thuật và điều
trị hóa chất, nâng cao sức đề kháng của người bệnh. Khi đã chẩn đoán nghi ngờ ung thư buồng trứng
thì việc phẫu thuật sẽ thực hiện mổ mở theo đường giữa dưới rốn, có khi kéo dài lên trên rốn nếu
khối u quá to, để lấy trọn vẹn khối u.
Có nhiều bệnh nhân yêu cầu mổ nội soi nhưng không được đáp
ứng do khi mổ nội soi, khả năng phát tán của tế bào ung thư ra khoang bụng là rất cao, điều đó giúp
tế bào ung thư di căn nhanh và xa hơn.
Tùy thuộc vào giai đoạn của ung thư buồng trứng mà bác sĩ đưa ra kế
hoạch điều trị thích hợp. Ở giai đoạn sớm, khi tế bào ung thư khu trú ở buồng trứng chưa lan ra lớp
vỏ của buồng trứng thì việc phẫu thuật cắt tử cung và hai phần phụ tương đối dễ dàng.
Cắt một phần
mạc nối lớn cũng rất quan trọng nhằm đánh giá giai đoạn ung thư buồng trứng để có kế hoạch điều trị
và tiên lượng sau phẫu thuật. Điều trị hóa chất kết hợp sau phẫu thuật sẽ cho tỉ lệ sống 5 năm là
66%.
Ở giai đoạn muộn hơn, khi tế bào ung thư đã xâm lấn vào các cơ quan
lân cận trong chậu hông hoặc di căn xa hơn nữa thì việc phẫu thuật sẽ hết sức khó khăn. Nguyên tắc
phẫu thuật trong các trường hợp này là cắt bỏ được càng nhiều tổ chức ung thư càng tốt.
Điều trị
hóa chất có thể thực hiện trước và sau khi phẫu thuật. Ở giai đoạn cuối của ung thư buồng trứng, tỉ
lệ sống 5 năm chỉ còn 4%.
Khám ngay khi có biểu hiện bệnh
Hầu hết bệnh nhân ung thư buồng trứng đều đến bác sĩ ở giai
đoạn muộn. Để việc phát hiện và điều trị đạt kết quả cao hơn, nên khám phụ khoa định kỳ hoặc khám
ngay khi mới có những biểu hiện sớm của bệnh, nhất là những người có mẹ, chị hoặc em gái bị ung thư
buồng trứng.
Phụ nữ mang thai và cho con bú dù một lần trong
đời cũng góp phần làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng. Các u thực thể của buồng trứng cũng phải
được phẫu thuật sớm và làm xét nghiệm tổ chức học để nếu có tế bào ác tính thì phải xử trí triệt
để
AloBacsi.vn
Theo Một thế giới